1.Trận tập kích sân bay Cát Bi
Ngày 9/11/1953, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng xác định kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 là: Hướng chính là Tây Bắc, kiên quyết tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng Lai Châu và mở rộng căn cứ kháng chiến, uy hiếp Thượng Lào để phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến sau này. Ngày 6/12/1953, Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II) “Phương án tác chiến mùa Xuân năm 1954” và được Bộ Chính trị thông qua phương án và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với mật danh “Trần Đình”.
Ngày 22/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao Cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho Quân đội. Người chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà còn đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”[1].
Cuối tháng 12/1953, Hội nghị Khu ủy khu Tả Ngạn[2] họp, kiểm điểm sự thi hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II). Trên cơ sở phân tích kỹ tình hình địch, tình hình kháng chiến trên địa bàn, Khu ủy đề ra phương hướng hoạt động Đông Xuân 1953-1954 cho toàn khu là: “Đoàn kết quân dân, đẩy mạnh đấu tranh về mọi mặt, chủ yếu là đấu tranh vũ trang để phá âm mưu mới của giặc. Đồng thời chú ý tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng để bồi dưỡng lực lượng nông dân, đẩy mạng du kích chiến tranh...”[3].
Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, Khu ủy và Bộ Tư lệnh khu Tả Ngạn chỉ thị cho Tỉnh ủy, Tỉnh đội Kiến An[4] nghiên cứu kế hoạch tập kích sân bay Cát Bi để phối hợp với hoạt động của cả nước trong Đông Xuân 1953-1954. Chấp hành chỉ thị của Khu ủy, Bộ Tư lệnh khu, mọi công tác chuẩn bị cho trận đánh được Tỉnh ủy, Tỉnh đội khẩn trương tiến hành.
Sân bay Cát Bi nằm sâu trong vùng chiếm đóng của quân Pháp thuộc huyện Hải An, tỉnh Kiến An[5] (nay là quận Hải An, thành phố Hải Phòng); với diện tíchlà 9,3 km2. Xung quanh sân bay, địch tạo thành một vành đai trắng rộng hàng trăm mét. Phía Bắc, sân bay cách trung tâm thành phố Hải Phòng 7 km; từ hướng Đông Bắc vòng xuống Tây Nam đều giáp sông và biển, tạo thế độc lập và ngăn cách sân bay với với các vùng giáp ranh Kiến Thuỵ và xa hơn nữa là vùng tự do Tiên Lãng của ta. Ta muốn vào đánh sân bay thì phải vượt qua nhiều sông ngòi trong điều kiện gió rét cùng với súng, lựu đạn, dao găm, bọc pháp, thủ pháo; vùng dân cư thưa thớt, khó trụ lại sau trận đánh, mà đánh song phải rút nhanh về căn cứ trước khi trời sáng để bảo đảm an toàn. Thời tiết diễn ra trận đánh vào tháng giêng tháng hai, gió mùa Đông Bắc, có ảnh hưởng tới tốc độ hành quân, tiếp cận mục tiêu, nhưng cũng tạo được thuận lợi cho ta bí mật hành động.
Về tình hình địch: Sân bay Cát Bi là một trong những sân bay chiến lược lớn nhất của quân Pháp ở Đông Dương, được trang bị hiện đại và bảo vệ rất nghiêm ngặt. Sân bay được chia thành 4 khu vực: Khu A: là nơi ở của phi công và lính dù; Khu B: có sở chỉ huy, trung tâm thông tin, bộ phận tham mưu, chỉ huy và nhà ga sân bay; Khu C: nơi sửa chữa máy bay, xe cộ; Khu D: có các khu chứa bom và quân trang, quân dụng. Ngày 31/1/1954, sân bay của địch tại Đồ Sơn bị bộ đội ta tấn công, do đó chúng càng tăng cường bảo vệ sân bay nghiêm ngặt cả bên trong và vành đai bên ngoài. Lực lượng bảo vệ sân bay khoảng 3.000 tên, gồm 6 tiểu đoàn (3 tiểu đoàn Bắc Phi, 1 tiểu đoàn Lê Dương, 1 tiểu đoàn nguỵ, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội tham mưu chỉ huy sân bay, ngoài ra còn hàng trăm phi công, nhân viên phục vụ và 50 cố vấn quân sự Mỹ. Trang bị vũ khí có 25 trọng liên, 15 cối 81 mm, 13 khẩu trọng kiên bố trí thành một cụm phòng không bảo vệ sân bay. Khả năng sân bay có thể chứa 300, nhưng thường xuyên có khoảng 200 chiếc, ngoài ra còn nhiều kho đạn, quân trang, quân dụng. Xung quanh sân bay có 6 hàng rào dây thép gai bao bọc, gồm các loại hàng rào đơn, mái nhà, cũi lợn, bùng nhùng. Sân bay có 77 lô cốt, tháp canh kiên cố, bố trí giải khắp sân bay; 22 vị trí chiến đấu bên trong hàng rào thứ nhất tính từ ngoài vào; 38 vị trí chiến đấu rải ra giữa các hàng rào bên trong và trong sân bay; 5 vị trí chiến đấu rải dọc đường 14 từ cầu Rào đến Quý Kim để bảo vệ sân bay từ xa. Khoảng cách giữa các hàng rào, lô cốt, tháp canh đều có lực lượng kiểm soát và các bãi mìn, vật cản gây tiếng động khi va chạm. Cứ 30 phút một lần, các đội tuần tra bằng xe cơ giới mang theo chó săn lùng sục quanh sân bay để phát hiện bất kỳ một khả nghi nào. Địch thường xuyên tổ chức những trận càn quét sâu vào vùng nông thôn huyện Kiến Thuỵ, lập tề để tại thành khu đệm ngăn cách sân bay với vùng tự do Tiên Lãng của ta.
Về tình hình ta:Do địch thực hiện vành đai trắng, khủ bố gắt gao những vùng xung quanh để bảo vệ sân bay, do đó, đến lúc này, ta chưa xây dựng cơ sở xung quanh sân bay thuộc huyện HảiAn; các xã Tân Phong, Hợp Đức, Hòa Nghĩa... thuộc huyện Kiến Thuỵ có cơ sở Đảng, nhưng hoạt động còn yếu. Trong khí đó, địch tổ chức mạng lưới tề dõng, chỉ điểm thường xuyên càn quét, bắt bớ hòng lung lạc tinh thần của nhân dân, phá cơ sở kháng chiến của ta. Các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Kiến An có tinh thần chiến đấu cao, đã có nhiều kinh nghiệm đánh vào các căn cứ, kho tàng nằm sâu trong lòng địch như tập kích thị xã Kiến An, đánh sân bay Đồ Sơn, nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm đánh sân bay lớn như Cát Bi lần này.
Công tác chuẩn bị chiến đấu:
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về tổ chức phối hợp với chiến trường chínhĐiện Biên Phủ, Bộ Tư lệnh Khu Tả Ngạn chỉ thị cho Tỉnh đội Kiến An: Tổ chức một trận tập kích vào sân bay Cát Bi, phá hủy một số lượng lớn máy bay địch để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, làm cản trở sự chi viện của địch cho các mặt trận, thúc đẩy chiến tranh du kích của ta trong vùng địch tạm chiếm. Yêu cầu đặt ra cho trận đánh là: phát hủy khoảng 50 máy bay, bảo toàn lực lượng, giành thắng lợi về quân sự.
Chấp hành chỉ thị của trên, nghiên cứu kỹ tình hình thực tế, Tỉnh uỷ Kiến An chỉ thị cho Ban chỉ huy Tỉnh đội là: Sử dụng một lực lượng nhỏ, có chất lượng chiến đấu cao, hành động bí mật, bất ngờ đột nhập sân bay, phát hủy một số lớn máy bay, đánh nhanh, rút nhanh về căn cứ trước khi trời sáng.
Chấp hành sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Khu Tả Ngạn, Tỉnh ủy Kiến An, ý định chiến đấu của Tỉnh đội trưởng là: Dùng một phân đội nhỏ bí mật luồn sâu đột nhập vào sân bay, tiến công thành nhiều mũi vào các vị trí được phân công. Hướng đột nhập vào sân bay là hướng Đông Nam. Mục tiêu tiến công chủ yếu là khu máy bay đỗ trên đường băng chính và đường băng phụ.
Lực lượng chiến đấu gồm 32 người, được chọn từ các đơn vị tập trung của Tỉnh đội: Đại đội 295, Đội quân báo 208..., tổ chức thành một đội chiến đấu, do đồng chí Lê Thừa Giao (tức Minh Khánh), Trưởng ban Tác chiến Tỉnh đội chỉ huy. Lực lượng chiến đấu được tổ chức hai mũi: Mũi 1 gồm 17 chiến sỹ do đồng chí Minh Khánh chỉ huy; Mũi 2 gồm 15 đồng chí, do đồng chí Đỗ Tất Yến, Đại đội trưởng Đại đội 295 phụ trách. Từng mũi tổ chức thành tổ 3 người, được trang bị súng, lựu đạn, dao găm và mỗi người có 3 quả bộc phá.
Diễn biến chiến đấu
18 giờ ngày 5 tháng 3 năm 1954, đơn vị tập kích sân bay gồm 32 người xuất phát từ Chử Khê, Hùng Thắng, Tiên Lãng, sau đó tổ chức vượt sông Văn Úc bằng thuyền qua đò Dương Áo sang Tân Trào, Cổ Trại, bơi qua sông Đa Độ sang Minh Tân, Tân Phong. Đến 4 giờ ngày 6 tháng 3 năm 1954, bộ đội xuống hầm bí mật ở Hợp Lễ, Hòa Nghĩa thuộc xã Hòa Nghĩa, huyện Kiến Thuỵ. 18 giờ ngày 6 tháng 3, bộ đội lên khỏi hầm bí mật, tập trung tại đầu làng Hòa Nghĩa, cán bộ kiểm tra vũ khí, trang bị của từng người, nhắc lại nhiệm vụ và động viên bộ đội quyết tâm chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
19 giờ 45 ngày 6 tháng 3, bộ đội hành quân từ Hòa Nghĩa qua Quán He, đường 14, vượt qua sông Lạch Tray, lội quan bãi lầy, men theo đường vòng dài hơn 10 km trong đêm tối và gió lạnh. Đến gần hàng rào thứ nhất thì dừng lại, cán bộ chỉ huy quan sát nhận đúng hướng và mục tiêu, lệnh cho tổ quân báo lên cắt hàng rào, mở 2 của mở. Địch trong sân bay luôn đi tuần và chiếu đèn pha, nên việc mở cửa phải mất 1 giờ.
Lúc 0 giờ ngày 7 tháng 3, Mũi 1 do đồng chí Minh Khánh chỉ huy đã vào sân bay, bí mật ém quân gần đường băng, cách khu sân bay gần 50 mét. Mũi 2, do đồng chí Đỗ Tất Yến chỉ huy đã vượt qua hàng rào thứ 5, thì gặp một hồ rộng, nước sâu, bèo tốt, không thể lội qua hoặc vòng qua được. Lúc ấy, đã sắp đến giờ nổ súng, đồng chí Yến đắn đo định cho nổ súng, báo hiệu cho Mũi 1 cứ đánh, nhưng các đồng chí quân báo dẫn đường đề nghị không nổ súng mà quay lại đi theo đường của Mũi 1 vào sân bay để cùng đánh.
Lúc 0 giờ 45, cả hai mũi đã triển khai song, tất cả thành hàng ngang đối diện với đường băng nơi máy bay đỗ. Theo hiệu lệnh tiến công, các chiến sỹ dũng cảm xông vào khu máy bay đang đỗ, móc bộc phá, dật nụ xòe phá huỷ máy bay. Hàng loạt tiếng nổ làm trấn động cả một vùng, lửa cháy sáng rực bầu trời. Càng về sau, tiếng nổ càng dữ dội, tung lên những cột lửa và cháy lan sang những mục tiêu bên cạnh, tạo thành một đường lửa dài theo đường băng máy bay đỗ. Bộ đội ta vừa đánh vừa hô xung phong uy hiếp quân địch; thừa thắng, quân ta đánh hết mục tiêu này đến mục tiêu khác. Cuộc chiến đấu diễn ra trong vòng 15 phút, sau đó các mũi nhanh chóng rút ra ngoài theo đường đã được rải vải trắng đánh dấu đường ra.
Kết quả trận chiến đấu: Về phía quân Pháp bị diệt 6 lính Âu phi, bị phát huỷ 59 máy bay; về phía bộ đội ta: 3 đồng chí hy sinh, 3 đồng chí bị thương và 1 đồng chí bị địch bắt.
2.Ý nghĩa lịch sử của trận tập kích sân bay Cát Bi
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được xây dựng tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên). Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 455 km về phí tây, nằm trên cách đồng Mường Thanh, bảo bọc xung quanh bởi vùng núi cao, con đường tiếp tế cho Điện Biên Phủ chủ yếu là đường hàng không gồm sân bay Gia Lâm, sân bay Kiến An, sân bay Cát Bi và con đường bộ thông qua đường số 6.
Vào thời điểm diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, thành phố Hải Phòng là cửa ngõ thông thương với các địa phương trong cả nước và nước ngoài; mọi sự chi viện, vận chuyển vũ khí, trang bị quân sự của quân Pháp chủ yếu qua cảng Hải Phòng. Từ Hải Phòng được vận chuyển đi khắp chiến trường, trong đó có Điện Biên Phủ chủ yếu bằng đường bộ (đường số 5), đường sắt Hà Nội - Hải Phòng và đường hàng không thông qua sân bay Đồ Sơn và Cát Bi. Chính vì vậy, quân Pháp cho xây dựng sân bay Cát Bi thành “một pháo đài bất khả xâm phạm” để bảo đảm chi viện cho các chiến trường.
Tập kích sân bay Cát Bi ngày 7/3/1954 của bộ đội địa phương tỉnh Kiến An đã làm thiệt hại nặng nề về máy bay địch, giảm mạnh khả năng dùng đường hàng không chi viện lực lượng và vũ khí, phương tiện chiến tranh cho các chiến trường, nhất là, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường chính Điện Biên Phủ và các mặt trận khác. Ngày 31/1/1954, bộ đội ta đã tập kích sân bay Đồ Sơn, đốt cháy 147 triệu lít xăng, đã gây cho địch nhiều khó khăn. Về đường sắt nối Hải Phòng - Hà Nội, dân quân du kích đẩy mạnh đánh phá gây cho chúng nhiều thiệt hại. ngày 7/3/1954,bộ đội ta tập kích sân bay, phá hủy 59 máy bay, thì càng gây khó khăn cho quân Pháp chi viện lên Điện Biên Phủ. Tổng kết chiến dịch cho thấy, lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ có 12 tiểu đoàn, 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe, 1 phi đội máy bay (sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm), trong quá trình chiến dịch tăng thêm 4 tiểu đoàn và 2 đại đội với tổng quân số là 16.200 quân. Qua đó, chúng ta mới thấy được, khi đánh sân bay Cát Bi, thì quân Pháp ở Điện Biên Phủ gặp khó khăn như thế nào.
Chiến thắng sân bay Cát Bi cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân Hải Phòng, Kiến An và nhiều địa phương khác trong cả nước hướng về Điện Biên Phủ, tất cả cho chiến thắng Điện Biên Phủ; cổ vũ tinh thần cán bộ, chiến sỹ đang tích cực chuẩn bị cho trận đánh lịch sử của dân tộc. Sau này, nhiều cán bộ, chiến sỹ tham gia chiến dịch, trong đó cóThiếu tá Lê Văn Ky, nguyên Trợ lý tham mưu phòng không Quân khu 4, nguyên là chiến sỹ cơ công pháo cao xạ 37 ly trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ hồi tưởng lại: Đang làm công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biện Phủ, nghe tin sân bay Cát Bi bị bộ đội ta phá hủy 59 máy bay, chúng tôi rất phấn khởi, rạo rực, tin rằng chiến dịch giành thắng lợi, bởi chỉ có 15 phút trong đêm tối, ta đã phá hủy được 59 máy, thì nhất định chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi; 4 ngày sau không thấy máy bay quân Pháp tiếp tế cho Điện Biên Phủ[6].
Chiến thắng Cát Bi cổ vũ phong trào chiến tranh du kích đánh sâu vào căn cứ của thực dân Pháp trên đồng bằng Bắc Bộ; làm cho Bộ chỉ huy quân Pháp, các sỹ quan, binh lính, tay sai địch hoang mang, lo sợ, mất hết lòng tin và sự "bất khả xâm phạm" căn cứ nằm sâu trong vùng chúng kiểm soát. Sau chiến thắng Cát Bi, quân và dân tỉnh Kiến An tổ chức nhiều trận đánh phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Cát Bi ngày 7/3/1954 là trận tập kích chiến lớn nhất, tiêu biểu nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang Hải Phòng - Kiến An về tinh thần quyết tâm chiến đấu, không sợ gian khổ, hy sinh, trình độ tác chiến với hình thức tập kích hiệu suất chiến đấu cao. Ngay sau khi nhận được tin trận tập kích sân bay Cát Bi thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi” cho cán bộ, chiến sĩ tham gia trận đánh lịch sử này.
Đánh giá về vai trò của trận tập kích sân bay Cát Bi đối với chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Ở đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện với tinh thần dũng cảm, kiên cường, mưu trí sáng tạo, xứng đáng là một “mặt trận điển hình đánh vào địch hậu”, có hiệu quả và hiệu suất chiến đấu cao...Những trận đánh “xuất quỷ, nhập thần” xung kích sân bay Gia Lâm, đặc biệt là sân bay Cát Bi đánh thẳng vào nơi trung tâm quân sự của giặc, đã phá hủy một bộ phận quan trọng không quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường toàn quốc và chiến trường chính Điện Biên Phủ…
3.Phát huy bài học chiến thắng Cát Bi
Những bài học về quá trình quán triệt chủ trương chỉ đạo của trên, tổ chức chuẩn bị và tổ chức đánh sân bay Cát Bi giành thắng lợi của bộ đội địa phương tỉnh Kiến An (thành phố Hải Phòng ngày nay), Đảng bộ, Chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang thành phố Hải Phòng tự hào, phát huy trong đấu tranh giải phóng thành phố khu vực 300 ngày, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Một là, quán triệt và triển khai sáng tạo chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ sát tình hình thực tiễn, quyết tâm táo bạo đánh vào sào huyệt của quân địch, chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ, cùng cả nước giành thắng lợi.
Quán triệt và nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của chiến dịch “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà còn đối với quốc tế”, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, Khu ủy, Bộ Tư lệnh khu Tả Ngạn đã xác định chủ trương phối hợp hoạt động với chiến dịch Điện Biên Phủ hiệu quả nhất. Nắm chắc tình hình, quân địch ở lòng chảo Điện Biên Phủ, mọi công tác bảo đảm chủ yếu là do đường hàng không tiếp tế, trong khi đó, sân bay Đồ Sơn (ngày 31/1/1954), sân bay Gia Lâm (ngày 4/3/1954) bị đánh phá, thì chỉ còn lại chủ yếu là sân bay Cát Bi. Chọn tập kích sân bay Cát Bi để phối hợp với Điện Biên Phủ là một chủ trương táo bạo, linh hoạt, sát thực tiễn, đạt hiệu quả cao của Khu ủy, Bộ Tư lệnh khu Tả Ngạn, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Kiến An trong hoạt động Đông Xuân 1953-1954.
Nhận thức rõ, tập kích vào sân bay Cát Bi - sào huyệt của kẻ thù là gian khổ hy sinh, nhưng Tỉnh ủy, Tỉnh đội vẫn bám sát tình hình, bám sát cơ sở kháng chiến để động viên, xây dựng quyết tâm cho bộ đội. Để có được trận tập kích vang dội, các cán bộ, chiến sĩ ta đã phải mất 7 tháng trời chuẩn bị, rất công phu với bao khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh (trong quá trình trinh sát, chuẩn bị và chiến đấu đã có16 cán bộ, chiến sĩ bị bắt và hy sinh).
Từ những vấn đề trên cho thấy, bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, bám sát tình hình thực tiễn, quyết tâm táo bạo đánh vào sào huyệt của quân địch nằm sâu trong vùng tạm chiếm, được bố phòng cẩn mật, chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ, cùng cả nước giành thắng lợi là một chủ trương sáng tạo của Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn, của Tỉnh ủy Kiến An.
Phát huy giá trị lịch sử từ trận tập kích sân bay Cát Bi, trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã xây dựng Hải Phòng trở thành hậu phương lớn, chi viện cao nhất sức người, sức của cho đồng bào miền Nam ruột thịt, đồng thời cùng chúng sức đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân, hải quân Mỹ ra miền Bắc, mà Hải Phòng là một trong những trọng điểm đánh phá ác liệt.Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang thành phố xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện to lớn sức người, sức của cho các chiến trường miền Nam, làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Lào và Căm-pu-chia: Liên tục 11 năm (1965-1975) hoàn thành và hoàn thành vượt mức 30 đợt tuyển quân (đạt 103,9% chỉ tiêu), tỷ lệ tuyển quân đạt 9,45% so với dân số.Đã huấn luyện và bổ sung chiến trường: Đi gọn 3 trung đoàn, 123 tiểu đoàn; điển hình là Trung đoàn 5 Yên Tử: Tổ chức huấn luyện gần 28.000 tân binh, trong đó đã có gần 22.000 hy sinh trên các chiến trường; cả12 khu phố, huyện và thị xã đều được tặng thưởng Huân chương.Cùng với chi viện cho các chiến trường, quân và dân thành phốxây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên không, trên biển góp phần cùng cả nước đánh thắng 2 lần chiến tranh phá hoạt của giặc Mỹ ra miền Bắc: Bắn rơi 317 máy bay; diệt và bắt sống nhiều giặc lái; 8 lần bắn cháy tàu chiến địch; tổng số rà, phá tháo gỡ bom, thủy lôi của địch: 895.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và lực lực lượng vũ trang thành phố tiếp tục triển khai nhiều chủ trương, giải pháp năng động, sáng tạo, đột phá, đưa thành phố phát triển để xứng đáng với niềm tin yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xây dựng thành phố Hải Phòng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Trong những năm đầu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-1989), Hải Phòng đã chi viện đắc lực cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, phía Bắc;tham gia xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn thành phố với tinh thần mỗi quận, huyện là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sỹ chống quân xâm lược; trong đó triển khai thực hiện nhiều công trình kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế như: Đường xuyên đảo Cát Bà, đường xuyên đảo Đình Vũ, lấn biển Vinh Quang, lấn biển Đường 14, đào kênh Cái Tráp...Điểm sáng là từ khoán đến người lao động của Đoàn Xá, Kiến Thụy làm cơ sở cho Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổng kết, ban hành chỉ thị Khoán 10, đưa nông nghiệp phát triển vượt bậc như ngày nay. “Ba cầu, 4 cống, 5 của ô” đã là những thành tích rất đáng tự hào của những năm bắt đầu đổi mới đất nước của thành phố Hải Phòng.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng bộ, quân và dân thành phố Hải Phòng đã nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, giành được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là những kết quả sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị.Giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đạt 3.694 USD, gấp 1,54 lần bình quân chung của cả nước, tăng 5,43 lần so với những năm trước đây; cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa; cơ sở hạ tầng, được đầu tư mạnh, có bước phát triển đột phá theo hướng đồng bộ, hiện đại (cầu Bạch Đằng, cầu Tân Vũ - Lạch Huyện, cầu Bính, Cầu Hoàng Văn Thủ, Cảng nước sâu Lạch Huyện....); văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ có bước phát triển, đạt nhiều kết quả quan trọng; quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; Hệ thống chính trị được coi trọng, tạo sự chuyển biến tích cực và toàn diện trên các lĩnh vực; hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao. Kết quả trên làm cơ sở quan trọng để Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/01/2019 “Về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” tạo thời cơ mới cho thành phố phát triển “vươn ra Biển Đông” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, dựa vào nhân dân, tuyên truyền vận động nhân dân để xây dựng cơ sở, chuẩn bị và thực hành đánh sân bay Cát Bi giành thắng lợi.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, địa bàn Hải Phòng (toàn bộ khu vực nội thành) bị chìm sâu trong vùng tạm chiếm của thực dân Pháp. Đặc biệt là những xã ở xung quanh sân bay Cát Bi thuộc huyện Kiến Thụy, huyện Hải An,quân Pháp lập vành đại trắng, xây dựng dày đặc lô cốt, tăng cường khủng bố khốt liệt để bảo vệ sân bay. Những ngày làm công tác chuẩn bị cho trận đánh, nhiều người dân đã không giám cho bộ đội vào chuẩn bị trận đánh vì sợ bị địch phát hiện khủng bố. Nhưng với quyết tâm chia lửa với chiến dịch Điện Biên Phủ, cán bộ, chiến sỹ Tỉnh đội Kiến An kiên trì tuyên truyền, vận động nhân dân, dựa hẳn vào nhân dân để làm công tác chuẩn bị. Anh em trinh sát ban ngày phải nằm hố, chui dưới bụi cây nơi sình lầy, bị muỗi, dĩn đốt, vắt chích đau buốt, không cơm ăn, nước uống, đói rét cắt da; đêm đến mới vào gặp dân, tuyên truyền, vận động, xây dựng cơ sở. Từ chỗ không giám cho bộ đội vào làng, nhiều gia đình đã đào hầm bí mật để cất dấu bộ đội, tạo điều kiện cho bộ đội vào trinh sát sân bay, đón bộ đội vào từ chiều ngày 6/3/1954.Nhân dân xã Tam Đa, Bạch Xa Trại, xã Nam Hưng (huyện Vĩnh Bảo), thôn Chử Khê, xã Hùng Thắng (huyện Tiên Lãng) bí mật cho bộ đội trú quân, luyện tập phương án tác chiến, tinh thần kiên quyết bảo vệ thuyền đến cùng, dù trời sáng hay gặp nguy hiểm vẫn phải đón bộ đội chu đáo. Nhưng nữ du kích dũng cảm dẫn bộ đội rút từ sân bay Cát Bi về Tiên Lãng - vùng căn cứ kháng chiến an toàn, nhân dân xung quanh sân bay thuộc huyện Hải An tạo điều kiện bắt nhân mối trong sân bay...Đó là sức mạnh của lòng yêu nước, của chiến tranh nhân dân được khơi dậy và phát huy, đó là bài học dựa và dân để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng được đúc kết rút ra từ trận tập kích sân bay Cát Bi.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ, chính quyền các cấp, các nganh đã phát huy giá trị bài học lịch sử, biết khơi dậy, phát huy sức mạnh của toàn quân và dân thành phố, giành những thành tựu hết sức quan trọng, đưa Hải Phòng vào thời kỳ phát triển mới như Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị (khóa XII) xác định.Trước hết, cần quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết 25 của Bộ Chính trị (khóa XI) “Về tăng tường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Quán triệt tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/Khó vạn lần dân liệu cũng xong”,Cái gì có lợi cho dân thì cốmà thực hiện, cái gì có hại cho dân thì cố mà tránh, cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội luôn thường xuyên nắm tình hình cơ sở, bám sát sơ cở, để giải quyết các vấn đề nảy sinh từ cuộc sống.Trong những năm qua, thành phố Hải Phòng triển khai nhiều dự án phát triển kinh tế -xã hội, phải thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng, liên quan đến hàng vạn cuộc sống người dân. Nhưng, thành phố đã làm tốt công tác vận động nhân dân cùng chung sức đồng lòng để xây dựng thành phố. Phần lớn là các hộ dân di rời, trả lại mặt bằng để triển khai các dự án. Thành phố của gần 100 cây cầu, với nhiều cây cầu mang dấu ấn lịch sử như:Cầu Bính, Kiền, Lạch Huyện, Bạch Đằng, Hoàng Văn Thụ...; những khu trung cư cao tầng như Vin-hom, Bắc sông Lạch Tray, Hoàng Huy...; kết quả chỉnh trang đô thị, xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới kiểu mâu...là minh chứng của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố. Toàn thành phố triển khai gần 220 mô hình “Dân vận khéo”, trong đó hơn 200 mô hình của tập thể và 16 mô hình cá nhân thực hiện là minh chứng cho công tác vận động nhân dân trong tình hình mới, “Ý Đảng - lòng dân” được kế thừa và phát huy từ vận động nhân dân trong chiến thắng Cát Bi.Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị các cấp luôn quan tâm chăm lo xây dựng cơ sở vững mạnh, hướng về cơ sở, lấy hiệu quả từ cơ sở làm phương châm hành động. Cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang thành phố phối hợp làm tốt công tác chính sách hậu phương quân đội xây dựng “Tình quân dân như cá với nước”, “Đi dân nhớ, ở dân thương”, kết hợp huấn luyện với làm công tác dân vận trong tình hình mới bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả.
Ba là, làm tốt công tác huấn luyện cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí, quyết tâm chiến đấu cao, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, rèn luyện thể lực sát thực tế chiến đấu.
Trận tập kích sân bay Cát Bi là trận đánh nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, được xây dựng kiên cố, canh giữ rất cẩn mật. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, cán bộ, chiến sỹ tham gia trận đánh được quán triệt, giáo dục về ý chí quyết tâm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, niền tin vào thắng lợi, việc tổ chức trận đánh đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sỹ tham gia trận đánh có tinh thần; công tác tổ chứclực lượng cũng được nghiên cứu kỹ lưỡng, phù hợp với điều kiện của trận đánh; công tác huấn luyện chu đáo, sát thực tế chiến đấu. Đường hành quân vào cất dấu lực lượng, rồi sau khi đánh, tổ chức rút ra ngoài càng nhanh, càng tốt. Để đáp ứng yêu cầu này, cán bộ, chiến sỹ tham gia trận đánh Cát Bí phải tập chạy “bôn tập”, có đêm chạy đến 30 km, đạt tốc độ 7 km/giờ, vừa nâng cao sức bền của cơ thể, vừa đáp ứng khả năng cơ động nhanh; lực lượng vào tập kích sân bay còn được huấn luyện bơi giỏi có mang theo vũ khí, bộc phá, thủ pháp mà không bị ẩm ướt; tập chồng hai, ba người để có thể gắn bộc phá vào máy bay...
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, lực lượng vũ trang 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ) trên địa bàn thành phố Hải Phòng luôn được quan tâm chăm lo xây dựng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ vừa bảo đảm lực lượng chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại chỗ đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của giặc Mỹ ra miềm Bắc, đồng thời đáp ứng chi viện cho các chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Lào và Cam-pu-chia.
Từ sau công cuộc đổi mới đất nước đến nay: xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương vững mạnh toàn diện, chú trọng xây dựng vững mạnh về chính trị, xây dựng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh rộng khắp. Đặc biệt là, đã tập trung xây dựng Trung đoàn bộ binh 50 thuộc LLVT thành phố Hải Phòng hai lần được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bộ Chỉ huy quân sự thành phố đãtham mưu cho Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố mở được 521 lớp bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho 176.557 đồng chí thuộc đối tượng; hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân hàng năm với chất lượng ngày càng cao.
Lực lượng vũ trang thành phố Hải Phòng tiếp tục huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang theo phương châm: “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Huấn luyện sử dụng thành thạo các loại vũ khí hiện có, sát với tình hình, sát với địa bàn, nhất là kết hợp chặt chẽ huấn luyện với hành quân dã ngoại rèn luyện thể lực để có đủ sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; tham gia hội thi, hội thao của Quân khu 3 và Bộ Quốc phòng tổ chứcđều giành thứ hạng cao; diễn tập khu vực phòng thủ cấp thành phố và huyện, diễn tập tác chiến phòng thủ cấp xã; duy trì nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình vùng biển, đảo, vùng trời, nội địa thành phố, không để bất ngờ trong mọi tình huống.
Trong thực hiện chính sách hậu phương quân đội, lực lượng vũ trang thành phố xây mới và nâng cấp sửa chữa gần 12.000 ngôi nhà tình nghĩa; tặng gần 2,5 tỷ sổ tiết kiệm cho các đối tượng chính sách, tham mưu cho thành phố phát động ủng hộ Quỹ “Vì Trường Sa thân yêu”và chủ trì tiếp nhận được 15 tỷ 227 triệu đồng; thăm tặng quà biên giới, hải đảo trị giá trên 2 tỷ đồng...Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, nhất là tham mưu cho Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân đầu tư kinh phí để xây dựng các hạng mục công trình trong khu vực phòng thủ thành phố, phòng thủ các quận, huyện, Trung đoàn bộ binh 50 ngày càng vững chắc.
Năm tháng qua đi, nhưng ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn trận tập kính sân bay Cát Bi của bộ đội địa phương tỉnh Kiến An ngày 7/3/1954 vẫn còn nguyên giá trị, là cuội nguồn của sức mạnh toàn Đảng bộ, Chính quyền, quân và dân thành phố thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) xác định: “Xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nước”.
Tài liệu tham khảo:
1. Hải Phòng - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1954-1955), Nxb QĐND, H, 1986.
2. Hải Phòng - Lịch sử kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1955-1975), Nxb QĐND, HN, 1989.
3. Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/01/2019, Ban CH TW Đảng khóa XIII về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4.Quân khu 3 - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Nxb QĐND, H, 1989.
5. Quân khu 3 - Những trận đánh tiêu biểu, điển hình, Nxb QĐND, H, 1990;
6.60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QDdND, H, 2004.
[1]60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2004, trang 141.
[2]Tháng 2/1952, khu Tả Ngạn được thành lập
[3]Hải Phòng –Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1955), Nxb QĐND, H, 1986, trang 290.
[4] Lúc này, Kiến An là một tỉnh, đến 1962 sáp nhập vào TP. Hải Phòng lấy tên gọi chung là TP. Hải Phòng.
[5]Tháng 10/1962, thành phố Hải Phòng hợp nhất với tỉnh Kiến An lấy tên là thành phố Hải Phòng như hiện nay.
[6] Theo Thiếu tá Lê Văn Ky, nguyên chiến sỹ cơ công pháo 37 lý trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.