Tôi là Nguyễn Thế Phim, sinh năm 1933, quê quán cũng như trú quán hiện nay hiện nay ở thôn Đồng Tiến, xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Tôi sinh ra và lớn lên trên vùng quê thuần nông, nếu không có những cây cầu, thì như trên một ốc đảo, bởi 4 bên đều là sông nước. Thời ấy, quê tôi nghèo lắm, bởi chế độ phong kiến cấu kết với thực dân Pháp bóc lột, cái nghèo đói cứ bám diết lấy quê tôi cũng như bao vùng quê khác. Rồi Mặt trận Việt Minh về tuyên truyền, vận động, rồi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cuộc sống được đổi đời; nhưng chưa được bao lâu, thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Được ánh sáng cách mạng Tháng Tám soi đường, tôi được học văn hóa, 3 xã mới có 1 lớp 4, tham gia Đội Thiếu nhi Cứu quốc, rồi Đoàn Thanh niên cứu quốc. Ban ngày học văn hóa, buổi tối theo các anh chị tham gia bình dân học vụ. Năm 1953, tôi tham gia nhập Quân đội, được biên chế vào Đại đội 295, thuộc Tỉnh đội Kiến An[1]. Sau đó phục viên, làm kế toán Hợp tác xã; tháng 4 năm 1965, tôi tái ngũ, được học về chiến tranh nhân dân, phong quân hàm Trung úy, phụ trách công tác cán bộ, chính sách của Huyện đội Tiên Lãng. Tôi được cử vào Nam chiến đấu, rồi làm Chính trị viên Tiểu đoàn, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn, trước khi nghỉ hưu giữ cương vị là Viện phó Chính trị Bệnh viện 579 - Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Về với đời thường, tôi có 15 năm làm Phó Chủ tịch Hội CCB xã, 15 năm làm Chủ tịch Hội cha mẹ học sinh xã Bắc Hưng.
70 năm chiến thắng Cát Bi - trận chiến đấu phối hợp tuyệt đẹp với Chiến dịch Điện Biên Phủ đã qua. Dẫu vẫn biết rằng quy luật của tạo hóa, con người vào tuổi 91 như tôi, thì trí nhớ giảm sút là điều bình thường, nhưng đối với tôi, những gì về làm công tác chuẩn bị và trực tiếp tham gia trận đánh sân bay Cát Bi, rồi sau đó, rất nhiều lần cán bộ, chiến sỹ đánh sân bay Cát Bi trao đổi, tâm sự về trận đánh này..., thì hôm nay, ngồi hồi tưởng lại cũng vẫn như ngày nào.
Khoảng thời gian quý III năm 1953, chúng tôi được lệnh tập kết về Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo, gồm phần lớn là cán bộ, chiến sỹ của Đại đội 295 và một số anh em Quân báo 208 thuộc Tỉnh đội Kiến Anđể chuẩn bị cho một trận đánh. Lúc này, chúng tôi chưa biết là chuẩn bị cho trận đánh sân bay Cát Bi do yêu cầu bảo đảm bí mật. Trước hết, chúng tôi rèn luyện thể lực bằng chạy bộ từ Tam Đa đến Tang Thịnh (7 km) rồi chạy về và từ Tam Đa đến cống Đơn (7 km) rồi chạy về, tập chạy cả trên những chân ruộng được cày xới đất chỗ thấp, chỗ cao, lổn nhổn, rất khó chạy, có anh em chạy còn vất ngã dúi dụi, nhưng vẫn đứng lên chạy. Rồi tậpbơi trên sông nước, tập gói buộc vũ khí, trang bị để vượt sông...Sau này, khi chính thức bước vào trận đánh, rồi giành thắng lợi rút ra ngoài rồi, chúng tôi mới thấm thía của việc tập chạy (bôn tập), tập vượt sông, nếu không luyện tập như vậy, thì làm sao chúng tôi hành quân vào đánh, rồi nhanh chóng băng qua các cánh đồng của huyện Kiến Thụy để đến nơi thuyền chở sang phía Tiên Lãng. Chúng tôi còn tập gói, buộc, cách đánh thủ pháo, bọc phá, học chồng người để móc thủ pháo...
Lúc đầu, tỉnh quyết tâm sử dụng tiểu đoàn vào đánh Cát Bi, nhưng khi hành quân ra bờ sông Dương Áo chờ thuyền, thì tàu chiến của địch từ bến Khuể xuống bắn súng vào pháo địch ở Kiến An bắn về, lái đò bỏ chạy, địch cướp mất 2 thuyền, do đó phải hoãn kế hoạch. Tỉnh thay đổi quyết tâm là: dùng lực lượng nhỏ, đánh xong rút ra ngay, Đại đội 295 lập đội quyết tử từ 30-35 người có tinh thần chiến đấu dũng cảm.
Sau khi được luyện tập kỹ theo phương án tác chiến của Tỉnh đội, chúng tôi di chuyển từ Tam Đa (Vĩnh Bảo) tập kết về thôn Bạch Xa Trại, xã Nam Hưng, chuẩn bị gói buộc bọc phá, thủ pháo và các cơ sở vật chất, trang bị cho trận đánh. Sau đó về thôn Thái Hòa, xã Hùng Thắng (Tiên Lãng).
18 giờ ngày 5/3/1954, 32 cán bộ, chiến sỹ tập kích sân bay Cát Bi xuất phát từ Chử Khê, Hùng Thắng (Tiên Lãng). Trước khi xuất phát, được nghe nhật lệnh của Bộ Quốc phòng và thư Bác Hồ chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn đội hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Để giữ bí mật, toàn đội xuất phát ở gần bến đò Dương Áo, nơi có nhiều rừng lậu, bần, chứ không phải chỗ bến phà Dương Áo hiện nay. Đơn vị được đưa qua sông bằng thuyền của dân, sang Tân Trào, Cổ Trại, bơi qua sông Đa Độ sang Minh Tân, Tân Phong, đến tập kết giấu quân ở ấp Tư Sinh, Tư Thủy, huyện Kiến Thụy (sau này là phường Hòa Nghĩa, quận Dương Kinh). Một số anh em được đưa xuống hầm của gia đình cơ sở, một số anh em lợi dụng những đống rơm, đống rạ chui vào để ẩn nấp.
Lúc 18 giờ ngày 6/3/1954, bộ đội lên khỏi hầm, bí mật tập trung về làng Hòa Nghĩa, cán bộ chỉ huy trận đánh kiểm tra lại vũ khí, trang bị, phương tiện của từng người, nhắc lại nhiệm vụ và động viên chúng tôi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao.
Lúc 19 giờ 45 ngày 6/3/1954, bộ độ ta hành quân từ Hòa Nghĩa qua Quán He, đường 14, vượt qua sông Lạch Tray, lội qua bãi lầy, theo đường vòng dài hơn 10 km trong đêm tối, gió lạnh. Việc vượt sông cũng là những thử thách khó khăn, nước chảy xiết, trên mình mang theo bộc phá nặng 10 kg, thủ pháo nặng 2 kg, ngoài ra còn súng Tôm-sơn, lựu đạn, dao găm..., nhưng do đã được luyện tập từ trước, nên từ cách gói buộc thành bọc nổi, rồi đẩy qua sông, chúng tôi vào đến hàng rào thứ nhất của sân bay an toàn, bảo đảm bí mật. Khi hàng rào cắt xong, chúng tôi chui vào, để lại đồng chí Thược bảo vệ cửa rút ra, nhưng không may, đồng chí Thược[2] bị quân Pháp đi tuần tra bắt được.
Lúc 0 giờ ngày 7/5/1954, hai mũi triển khai xong, tất cả thành hàng ngang đối diện với đường băng nơi máy bay đỗ, bộ phận quân báo bố trí cảnh giới bảo vệ sườn phải đội hình chiến đấu của mũi 1, gần đường băng chính cất và hạn cánh của máy bay. Lúc 1 giờ ngày 7/3, theo hiệu lệnh tiến công, các cán bộ, chiến sỹ dũng cảm xông vào khu đỗ máy bay, móc thủ pháo, giật nụ xòe phá hủy từng máy bay một. Hàng loạt tiếng nổ chát chúa vang lên làm chấn động cả một vùng. Bản thân tôi cũng nhanh chóng móc thủ pháo, phá được 3 máy bay. Trận tập kích sân bay Cát Bi diễn ra trong vòng 15 phút, sau đó, anh em nhanh chóng rút ra theo đường đã được đánh dấu bằng vải trắng.
Về kết quả trận đánh, sau này tổng kết lại, phía quân Pháp bị tiêu diệt 6 lính Âu - Phi, 59 máy bay của quân Pháp bị pháp hủy; sân bay Cát Bi cháy suốt 17 tiếng đồng hồ. Sau này, tôi được biết, có nhân chứng lịch sử đang chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ nói rằng, sau khi sân bay Cát Bi bị tập kích, 4 ngày sau đó không thấy một chiếc máy bay nào bay lên chi viện lực lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Về phía bộ đội ta, 3 đồng chí hy sinh, 3 bị thương và 1 đồng chí bị địch bắt. Nhận được báo cáo về kết quả trận đánh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điện khen và tặng cho Đơn vị vào đánh sân bay Cát Bi danh hiệu mà chúng tôi không bao giờ quên, đó là: “Đoàn dũng sỹ Cát Bi”. Chính phủ tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất cho toàn đội; Huân chương Quân công hạng Nhì cho đồng chí Đặng Kinh - Tỉnh đội trưởng; 2 Huân chương Quân công hạng Ba cho 2 đồng chí quân báo Tỉnh đội; 28 Huân chương Chiến công cho cán bộ, chiến sỹ tham gia trận đánh.
Tại cuộc hội thảo này, với phẩm chất kiên trung của một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, với bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ đội Cụ Hồ, củamột cựu chiến binh - người trực tiếp tham gia chuẩn bị và vào tập kích sân bay Cát Bi, tôi xin trao đổi thêm một số vấn đề dưới đây.
Một là, có nhiều ý kiến, dư luận cho rằng, số lượng máy bay bị phá hủytrong trậnđánh sân bay Cát Bi ngày 7/3/1954 không nhiều như vậy? Trước hết, chúng ta tra tìm những công trình nghiên cứu khoa học lịch sử đã được xuất bản, phát hành công bố rộng rãi. Theo cuốn Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, trang 1096, mục từ Trận sân bay Cát Bi có ghi: “phát hủy 59 máy bay”; theo Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả Ngạn sông Hồng có ghi: “...quân ta đã đốt cháy 59 máy bay”[3]; theo Lịch sử Đảng bộ thành phố Hải Phòng tập I ghi rõ: “...59 máy bay bị phá hủy”; theo Hải Phòng - Lịch sử kháng chiến chống Pháp xâm lược có ghi: “phá hủy 59 máy bay”[4]; cuốn sách “Quân khu 3 - Những trận đánh trong kháng chiến chống Pháp cũng có ghi: “...phá hủy 59 máy bay”. Như vậy, các công trình khoa học lịch sử quân sự ở cả cấp trung ương, quân khu và thành phố Hải Phòngđã tổng kết và đều khẳng định phá hủy 59 máy bay. Trong tập sách “Đường 5 anh dũng quật khởi”, anh Đỗ Tất Yến, người chỉ huy trực tiếp trận đánh có ghi: “Chỉ tiêu trên giao: Phá hủy từ 50 máy bay trở lên. Phải đánh thắng, người phải an toàn, thương vong ít nhất”. Anh Đỗ Tất Yến còn viết: “Kết quả: Anh em đã nổ 78 quả thủ pháo, nhưng anh Minh Khánh tính độ 53 chiếc (trong sử ghi là 59 chiếc)”[5]. Như chúng ta đã biết, sân bay Cát Bi thiết kế có thể chứa đến 500 máy bay, thời gian chúng tôi vào đánh, địch chỉ có 277 chiếc. Chúng tôi chỉ nhanh chóng đánh vào phía Tây của sân bay, trong khi đó, chỉ tiêu trên giao là phát huy 50 máy bay và thực tế đã phá hủy 59 máy bay, trung bình, mỗi chiến sỹ phá hủy từ 2 đến 3 máy bay, thì điều này cũng hoàn toàn hợp lý. Và sau này, tôi được biết, theo hãng tin của các nước phương Tây đưa tin về thiệt hại của sân bay Cát Bi cũng là như vậy - bị phá hủy 59 máy bay. Cho dù 53, 55 hay 59 máy bay bị phá hủy, thì chiến thắng Cát Bi đã làm tê liệt đường tiếp tế hàng không cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ - đó là giá trị lịch sử không thể thay đổi được.
Hai là, cũng có nhiều dư luận còn băn khoăn, chưa đồng thuận về vấn đề: Ai là người chỉ huy trực tiếp trận đánh sân bay Cát Bi? Đồng chí Lê Thừa Giao – tức Minh Khánh, hay đồng chí Đỗ Tất Yến? Trước hết, chúng ta cũng cùng nghiên cứu các công trình đã xuất bản. Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, tập I khẳng định: “Đồng chí Lê Thừa Giao và Đỗ Tất Yến trực tiếp chỉ huy”; công trình “Quân khu 3 - Những trận đánh trong kháng chiến chống Pháp” xác định: Mũi 1- đồng chí Minh Khánh chỉ huy, mũi 2 do đồng chí Đỗ Tất Yến chỉ huy; công trình Hải Phòng - Lịch sử kháng chiến chống Pháp xâm lược có ghi: “Dưới quyền của Lê Thừa Giao và Đỗ Tất Yến nhận lệnh xuất phát”...Các công trình trên đều khẳng định các anh Lê Thừa Giao và Đỗ Tất Yến đều cùng trực tiếp chỉ huy. Tôi là chiến sỹ trực tiếp của Đại đội 295 thuộc Tỉnh đội Kiến An, ngay từ đầu, đã thấy anh Đỗ Tất Yến trực tiếp chỉ huy từ tiếp nhận, quán triệt nhiệm vụ, tổ chức huấn luyện, đến khi tổ chức vào đánh sân bay. Anh Lê Thừa Giao là tác chiến Tỉnh đội được tăng cường xuống chỉ trong thời gian ngắn. Khi vào đánh, cả hai anh Lê Thừa Giao và Đỗ Tất Yến cùng chỉ huy trực tiếp hai mũi. Như vậy, công bằng mà nói, thì anh Đỗ Tất Yến là người chỉ huy trực tiếp chúng tôi ngay từ những ngày đầu tập kết, huấn luyện, cho đến khi kết thúc trận đánh, rút về Tiên Lãng. Qua nhiều lần trao đổi, hội thảo, cán bộ, chiến sỹ “Đoàn dũng sỹ Cát Bi” chúng tôi đều khẳng định điều này.
Ba là, về công tác chính sách đối với cán bộ, chiến sỹ tham gia trận đánh sân bay Cát Bi. Với tinh thần chỉ đạo là “đánh nhanh,rút ra nhanh”, sau khi đánh xong, chúng tôi nhanh chóng rút thật nhanh ra ngoài không để địch phản công lại. Trong số đó có một đồng chí bị thương là Lê Văn Vành, gửi vào trong dân. Nhưng do máu chảy, dây thành vết, hôm sau, quân Pháp lùng sục, phát hiện được, bắt và treo cổ trên cây 1 tuần liền. Chúng tôi biết được tin này đau xót lắm cho đồng đội mình mà không biết làm thế nào được, bởi vùng Kiến Thụy bị địch khủng bố gắt gao. Sau này, tôi có một suy nghĩ, giá như có sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng bảo đảm sau trận đánh của Huyện đội Kiến Thụy, với cơ sở cách mạng tốt hơn nữa, thì đồng chí Vành không phải hy sinh như vậy. Về đồng chí Liễng vào đến nơi lại mang pháo thủ ra ngoài, không hoàn thành nhiệm vụ, không được thưởng huân chương, thì tôi nghĩ rằng, đây cũng là quy luật của chiến tranh, của sự thử thách gian khổ, hy sinh mà không phải ai cũng vượt qua được. Sân bay Cát Bi nằn sâu trong vùng địch tạm chiếm, được bố phòng cẩn mật, quân Pháp được trang bị đầy đủ vũ khí, trang bị, thường xuyên lùng sục, bảo vệ sân bay, khủng bố vành đai trắng, thì thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, 32 cán bộ, chiến sỹ vào đánh sân bay Cát Bi, chia lửa cho chiến dịch Điện Biên Phủ cũng xứng đáng được ghi nhận, tôn vinh.
Năm tháng qua đi, nhưng những giá trị lịch sử của một trận đánh phối hợp kịp thời, hiệu quả, chia lửa cho chiến trường Điện Biên Phủ - trận quyết chiến của toàn dân tộc để đi đến độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc thì vẫn còn mãi.
Tiên Lãng, tháng 4 năm 2024
[1] Lúc này, cơ quan quân sự địa phương cấp tỉnh gọi là tỉnh đội, cấp huyện gọi là huyện đội.
[2]Đồng chí Thược sau được trao trả tù binh.
[3] Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả Ngạn sông Hồng, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2002, tr 418.
[4] Hải Phòng –Lịch sử kháng chiến chống Pháp (1945-1955), Nxb QĐND, HN, 1986, tr 300.
[5] Sách Đường 5 Anh dũng quật khởi, Tập 1, tr 191.