1. Cơ hội và thuận lợi
1.1. Đảng, Chính phủ quan tâm đặc biệt tới Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN4.0) và chuyển đổi số
Ngày 27/9/2019 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết đánh giá: Kinh tế số được hình thành, phát triển nhanh, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế; công nghệ số được áp dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việc xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số được triển khai quyết liệt, bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy vậy, Quá trình chuyển đổi số quốc gia còn chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế; nhiều doanh nghiệp còn bị động, năng lực tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại còn thấp. Kinh tế số có quy mô còn nhỏ. Việc đấu tranh với tội phạm, bảo đảm an ninh mạng còn nhiều thách thức.
Nghị quyết cũng đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2025: ...Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung. Đến năm 2030: Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung.
Nghị quyết cũng xác định “nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số”.
Chính phủ đã có những chỉ đạo cụ thể phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, cải cách giáo dục và dạy nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ngày 04/5/2017, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16-CT/TTg về tăng cường năng lực tiếp cận CMCN4.0. Một trong số các giải pháp được Thủ tướng Chính phủ đề ra trong Chỉ thị là: “Xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh. Rà soát, lựa chọn phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm cạnh tranh chiến lược của quốc gia bám sát các công nghệ sản xuất mới, tích hợp những công nghệ mới để tập trung đầu tư phát triển.”
Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôi và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019, Chính phủ đã giao cho Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng và trình phê duyệt Đề án Chuyển đổi số quốc gia trong năm 2019.
Năm 2020 đã được Bộ Thông tin và Truyền thông tuyên bố là năm chuyển đổi số quốc gia, để đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế số, một xã hội số.
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 749?QĐ-TTg Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Ngoài ra, còn có Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển doanh nghiệp công nghệ số, các dự thảo chiến lược, kế hoạch, chương trình có liên quan.
Nhìn chung, ở tầm quốc gia, Chính phủ đã năng động, nhạy bén, sâu sát có những chỉ đạo thiết thực để đẩy mạnh chuyển đổi số. Đây cũng là cơ hội cho Hải Phòng trong quá trình tiếp cận CMCN4.0.
1.2. Thành phố Hải Phòng có chiến lược phát triển rõ ràng, năng động và tiên tiến
Thành phố Hải Phòng đã hoàn thành việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược này đã được cụ thể hoá trong nội dung Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị.
Qua 5 quan điểm phát triển, Bộ Chính trị đã giao cho Hải Phòng nhiệm vụ phát triển cả chiều rộng và chiều sâu trong đó phát triển theo chiều sâu là chủ đạo. Hải Phòng vẫn phải có giai đoạn chuyển tiếp từ mô hình tăng trưởng cũ, phát triển theo chiều rộng (tăng quy mô nền kinh tế, sử dụng nhân công lao động phổ thông giá rẻ, chấp nhận phát triển các dự án có sản phẩm có giá trị gia tăng thấp để tạo công ăn việc làm cho người lao động...) sang phát triển theo chiều sâu là chủ đạo. Đến năm 2025, Hải Phòng phải cơ bản hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đạt các tiêu chí đô thị loại 1 và đến năm 2030 phải trở thành thành phố công nghiệp hiện đại, thông minh, bền vững, tầm cỡ khu vực Đông Nam Á, đóng góp 8,2% GDP cả nước, với GRDP bình quân đầu người đạt 29.900 đô la Mỹ (USD). Trong 10 năm tới, kinh tế Hải Phòng phải có bước nhảy vọt, tốc độ tăng trưởng bình quân từ 13% ÷ 12,5% một năm.
Với những nhiệm vụ rất nặng nề như vậy, Hải Phòng phải kết hợp khôn khéo giữa các công nghiệp truyền thống với các công nghệ mũi nhọn trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và ứng dụng các xu thế lớn biến đổi công nghệ trong CMCN4.0, nhất là công nghệ số để phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ logistic, vận tải biển và ngân hàng. Nghị quyết 45 –NQ/TW của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh, cần phải chú trọng đầu tư phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là các yếu tố động lực để thúc đẩy chuyển đổi số.
Trong chương trình hành động số 76-Ctr/TW ngày 8/7/2019 của Ban Thường vụ Thành uỷ, các khái niệm: Đô thị thông minh, giao thông thông minh, thành phố thông minh cũng được đề cập. Các khái niệm Công nghiệp hiện đại, thông minh, nông nghiệp công nghệ cao, thuỷ sản công nghệ cao đã được yêu cầu. Việc có được một chiến lược rõ ràng do Bộ Chính trị chỉ đạo, được các bộ, ngành và các cơ quan liên quan của Trung ương ủng hộ là cơ hội rất lớn để thành phố Hải Phòng tiếp cận, ứng dụng công nghệ số vào sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố.
1.3. Hạ tầng số tốt, tỷ lệ có học vấn cao và trẻ tuổi
Để phục vụ cho chuyển đổi số, cần có hạ tầng số phát triển, đồng thời cần nhân lực số (có kỹ năng số và tuổi đời trẻ). Hải Phòng có đủ các yếu tố này.
Về hạ tầng công nghệ thông tin, Hải Phòng nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước với: 82% cán bộ, công chức có máy tính để làm việc; 54,6% dân có thuê bao internet băng thông rộng; gần 70% người dân sử dụng internet; Tỷ lệ thuê bao di động là 113,3 thuê bao/100 dân; 100% khu dân cư phủ sóng di động 3G, 4G; 100% xã, phường, thị trấn có tuyến cáp quang; 100% sở ngành, quận có mạng LAN; 100% máy tính các đơn vị được kết nối internet băng thông rộng; 100% cơ quan nhà nước cấp thành phố, sở và quận huyện được kết nối mạng truyền số liệu dùng chung; Hệ thống hội nghị truyền hình thành phố có 27 điểm cầu, trong đó có điểm cầu tại Đảo Bạch Long Vỹ; gần 2.000 trạm thu - phát sóng thông tin di động
Với hạ tầng về công nghệ thông tin và viễn thông như trên, Hải Phòng có lợi thế không nhỏ trong việc áp dụng các công nghệ số như: IoT, Big data, Blockchain...
Điểm hạn chế là hạ tầng số còn chưa đồng bộ. Hệ thống cơ sở dữ liệu của thành phố còn thiếu một quy hoạch thống nhất để quản trị, chia sẻ, khai thác và cập nhật. các cơ sở dữ liệu chuyên ngành còn nằm rải rác ở các cơ quan. Các cơ sở dữ liệu dùng chung cũng đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Đã đến lúc cần xây dựng Trung tâm dữ liệu thành phố để giải quyết vấn đề này, phục vụ tốt cho chuyển đổi số.
Bên cạnh hạ tầng cơ sở như đường, cầu, các tuyến giao thông đường không, đường thuỷ, đường sắt, đường biển, các hạ tầng tốt về công nghệ số sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư, tạo điều kiện ứng dụng những xu thế lớn về biến đổi về công nghệ trong CMCN4.0.
Hải Phòng cũng có thế mạnh nhất định trong lĩnh vực nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, Hải Phòng có 04 trường đại học, gần 200 trường trung cấp và cao đẳng, 70 cơ sở nghiên cứu khoa học, trong đó có 03 Viện lớn của các cơ quan trung ương.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao của thành phố cơ bản có sự phát triển về số lượng, trưởng thành về chất lượng thích nghi dần với cơ chế thị trường, trình độ chuyên môn tương đối cao, tưng bước được trẻ hoá.
Hiện thành phố có hơn 4.000 sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, trung cấp và đại học ngành công nghệ thông tin. Hằng năm, các trường đào tạo khoảng 200 kỹ sư công nghệ thông tin.
Về học vấn, trong khối các cơ quan nhà nước (gồm các cơ quan Đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, quận, huyện, trường đại học, cao đẳng và các cơ quan nghiên cứu) trình độ Đại học: 88,7%; Trình độ thạc sĩ: 10,62%; Trình độ tiến sĩ: 1%. Trong khối doanh nghiệp, số người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 28%.
Một đặc điểm nổi bật là nguồn nhân lực chất lượng cao của Hải Phòng khá trẻ. Số tiến sĩ, thạc sĩ dưới 35 tuổi chiếm 48,67%; số tuổi từ 35 ÷ 55 tuổi là 41,74%. Tuổi của người lao động trong các khu công nghiệp dao động từ 18 tuổi đến 25 tuổi. Lực lượng trí thức và lao động công nghiệp trẻ có nhiều lợi thế trong việc tiếp cận công nghệ số. Tuổi đời trẻ giúp họ có điều kiện tự học hỏi, hoàn thiện bản thân, tiếp thu kiến thức và công nghệ mới.
2. Thách thức và khó khăn
2.1. Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, dư thừa lao động phổ thông
Với sự phát triển vũ bão của công nghệ, cấu trúc của nền kinh tế, các quan hệ xã hội bị thay đổi đáng kể. Nền kinh tế số dựa trên các tài nguyên là cơ sở dữ liệu để tạo ra các giá trị gia tăng. Vai trò của vốn không còn được quá coi trọng như trước. Các thông tin, các bí quyết, các sáng chế, các phát minh đóng vai trò quyết định trong phát triển, cạnh tranh, của các doanh nghiệp. Không gian số và internet gắn kết mọi người trên toàn trái đất, thay thế đáng kể về sự khác biệt về vị trí địa lý và khoảng cách. Những yếu tố về địa kinh tế, địa chính trị vì thế cũng giảm vai trò quan trọng của mình.
Một yếu tố mang tính quyết định của CMCN4.0 là vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao. Nền kinh tế kết nối, với các máy móc hiện đại, các ứng dụng công nghệ mới như AI, IoT, Blockchain cần phải có đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật có trình độ cao. Công nhân sản xuất trực tiếp cũng cần phải có kỹ năng để vận hành, kiểm tra các máy móc hiện đại. Vì vậy nhu cầu xuất hiện một lượng lớn lao động trình độ cao của một loạt ngành nghề mới sẽ ra đời. Việc thiếu hụt lao động trình độ cao là một thách thức lớn đối với từng đất nước, từng địa phương, từng doanh nghiệp.
Thành phố Hải Phòng hiện có 12 khu công nghiệp, thu hút trên 120.000 lao động. Tuy vậy, đa phần các doanh nghiệp là các doanh nghiệp dệt, may, da dày, lắp ráp đơn giản theo dây chuyền.v.v... Vì vậy tỷ lệ lao động phổ thông khá cao. Theo Ban quản lý khu kinh tế Hải Phòng, năm 2018 cơ cấu lao động: lao động phổ thông: 49,8%, lao động có nghề: 21,67%, trung cấp và cao đẳng: 14%, đại học trở lên: 14,36%. Đây là con số rất đáng suy nghĩ với một thành phố có truyền thống công nghiệp lâu đời như Hải Phòng.
Theo xu thế cuộc CMCN4.0, việc tự động hoá và dùng các robot sẽ là nguy cơ cho 60.000 lao động phổ thông hiện nay, trong đó 80% lao động là nữ. Kinh nghiệm cho thấy, tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đã giảm 60.000 lao động khi sử dụng công nghệ tự động hoá và robot trong thời gian qua.
Bên cạnh đó, thiếu hụt về nguồn lao động chất lượng cao của Hải Phòng cũng là một thách thức lớn. Hiện nhu cầu về các kỹ sư công nghệ thông tin của cả nước tăng 47% hàng năm nhưng các trường ngành công nghệ thông tin chỉ tăng số sinh viên đào tạo được 8%/năm và ở Hải Phòng, nguồn cung cấp nhân lực công nghệ thông tin còn hạn chế.
2.2. Điểm xuất phát thấp về năng lực nội tại và khó khăn nguồn vốn đầu tư
Bước vào CMCN4.0, Hải Phòng có điểm xuất phát tương đối thấp về năng lực nội tại. Quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, chưa xứng với vị trí tiềm năng của một thành phố có nhiệm vụ là cực tăng trưởng của vùng đồng bằng Bắc bộ.
Quy mô còn nhỏ: Năm 2017, GRDP của Hải Phòng so với cả nước là 3,3% chỉ bằng ¼ GRDP của Hà Nội (13,1%). Tổng vốn đầu tư phát triển của Thành phố trong năm 2017 là 71.874 tỷ (~ 3 tỷ USD) chi ngân sách bình quân giai đoạn 2003-2017 mỗi năm 10.736 tỷ, cỡ 447 triệu USD. Đây là những chỉ báo về quy mô nhỏ bé của kinh tế Hải Phòng.
Công nghiệp công nghệ thông tin chưa phát triểntương xứng với tiềm năng và vị thế của thành phố. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin trên địa bàn qui mô còn nhỏ, quy trình sản xuất, cung cấp sản phẩm chưa chuyên nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô hoạt động nhỏ. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp chưa cao, sản phẩm không rõ ràng, sức cạnh tranh thấp. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin còn ít. Giá trị sản xuất công nghiệp CNTT còn thấp.Thương mại điện tử còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong triển khai. Ứng dụng CNTT chưa thực sự mang tính đột phá trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sức cạnh tranh chưa cao: Mặc dù có thế mạnh về giáo dục và đào tạo, truyền thống công nghiệp lâu năm, song do kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, các chính sách thu hút đầu tư thiếu năng động, Hải Phòng giảm sức cạnh tranh so với các tỉnh trong khu vực. Sau 15 năm (2003-2017) trong khi GRDP của Hải Phòng tăng 1,11 lần thì Hà Nội tăng 1,64 lần, Quảng Ninh tăng 1,67 lần, đặc biệt Bắc Ninh tăng 3,6 lần, vươn lên GRDP gần sát Hải Phòng (3,24 % so với 3,3%). Năng suất lao động của Hải Phòng tăng bình quân 9,2%/năm. Hệ số ICOR (là chỉ số phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để tăng trưởng kinh tế) của Hải Phòng giảm và thấp hơn bình quân chung của cả nước.
Chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Theo đánh giá của Bộ Chính trị, Hải Phòng chưa hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Công nghiệp của Hải Phòng vẫn còn tỷ lệ cao các ngành sử dụng nhiều nhân công, giá trị gia tăng thấp (dệt, may, da giầy, đóng tàu, lắp ráp...) hoặc các ngành tiêu tốn tài nguyên, năng lượng gây ô nhiễm môi trường (xi măng, gạch ngói, nhiệt điện, cán thép...)
Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ: Mặc dù hội tụ đủ 5 loại hình giao thông nhưng chủ yếu Hải Phòng vẫn kết nối với các tỉnh khác bằng đường bộ. Vai trò cửa chính ra biển của phía Bắc đất nước ngày càng phát huy (sản lượng hàng qua cảng là 120 triệu tấn) thì sức ép lên hạ tầng giao thông Hải Phòng càng lớn. Tuy vậy nhưng đầu tư cho giao thông khá hạn chế. Trong 15 năm (từ năm 2003 đến năm 2017) đã chi 124.328 tỷ đồng (~5,2 tỷ USD), trong đó vốn Trung ương là 87.000 tỷ đồng, vốn Thành phố 35.321 tỷ đồng. Đây là con số rất thấp so với yêu cầu trở thành đầu mối giao thông của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của thành phố. Mục tiêu xây dựng hệ thống các cơ sở dữ liệu dùng chung chưa đạt được. Hệ thống cơ sở dữ liệu của thành phố còn sơ sài, manh múm, dàn trải. Việc quản lý, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu mang tính cá nhân hoặc tính cục bộ của các đơn vị, không được tổ chức theo chuẩn thông tin thống nhất, không có trung tâm tích hợp, vì vậy việc sử dụng cơ sở dữ liệu phụ thuộc vào người quản lý dữ liệu và qui chế của từng đơn vị, chưa có sự chia sẻ gắn kết dữ liệu trên toàn thành phố. An toàn thông tin còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, các hệ thống công nghệ thông tin trọng tâm của thành phố tuy đã được củng cố nhiều biện pháp kỹ thuật cơ bản, nhưng do lĩnh vực này liên tục phát triển nhanh nên các biện pháp khắc phục luôn bị lạc hậu so với thực tế. An toàn thông tin tại các sở ngành, quận, huyện đã bộc lộ những sơ hở làm rò rỉ thông tin nội bộ của các cơ quan.
Thiếu vốn đầu tư: Trong 10 năm tới (từ năm 2020 đến năm 2030), Hải Phòng có nhiệm vụ phát triển đột biến, trở thành động lực phát triển của cả vùng Bắc bộ và cả nước. Các chỉ tiêu giao cho thành phố rất cao: Tỷ lệ đóng góp cho GDP cả nước: 6,4% vào năm 2025 và 8,2% vào năm 2030. Tốc độ tăng trưởng GRDP từ 12,5% đến 13%. GRDP đầu người 14.700 USD vào năm 2025 và 29.900 USD vào năm 2030.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng liên tục cao như vậy trong 10 năm tới, Hải Phòng cần phải tiếp cận CMCN4.0, đẩy mạnh chuyển đổi số với các thành tựu công nghệ đột phá mới tạo nên mức tăng trưởng đột phá nêu trên.
Chắc chắn, với nguồn ngân sách như hiện nay, thâm chí nếu huy động ngân sách năm 2025 (190.000 tỷ đồng) và năm 2030 (310.000 tỷ đồng) cũng không thể đủ cho đầu tư hạ tầng đô thị, hạ tầng số, đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất... Đây là thách thức với tất cả các nước đang phát triển, không riêng của Hải Phòng.
Vì vậy, cần có các giải pháp huy động vốn qua đầu tư FDI. Rất thuận lợi là đầu tư FDI vào Hải Phòng có tỷ lệ 80% là vào công nghiệp. Các doanh nghiệp nước ngoài thường mang đến công nghệ cao, công nghệ số sẽ là một giải pháp quan trọng.
Phát triển các doanh nghiệp tư nhân, trong đó chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một hướng chiến lược, vì kinh tế tư nhân chiếm đến 47,98% GRDP của thành phố. Năm 2017, Hải Phòng có 28.823 doanh nghiệp tư nhân, giải quyết việc làm cho 240.987 lao động, đóng góp 47,98% GRDP.
Với vai trò động lực phát triển của vùng đồng bằng Bắc bộ, đầu tư cho Hải Phòng cũng là đầu tư cho cả nước. Vì vậy tranh thủ các nguồn vốn lớn của Trung ương để xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng thông minh, hiện đại cũng chính là giải pháp quan trọng.
2.3. Yêu cầu một môi trường pháp luật phù hợp
Công nghệ sốcó ảnh hưởng sâu rộng đến cấu trúc và mối quan hệ trong nền kinh tế toàn cầu. Nó cũng làm thay đổi toàn diện mối quan hệ giữa chính quyền với người dân, thay đổi mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Mặc dù chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu trong công cuộc cải cách tư pháp, đến nay Việt Nam vẫn chưa xây dựng được môi trường chính sách, pháp luật phù hợp để tận dụng các cơ hội đến từ CMCN4.0 nói chung, công nghệ số nói riêng. Việc chậm trễ này là rào cản trong quá trình sáng tạo, đổi mới quá trình tiếp cận và ứng dụng các thành tựu của CMCN4.0. Hậu quả là ta có thể bỏ lỡ các cơ hội để “đi tắt, đón đầu”, có thể giảm ý chí và sự hăng say, thậm chí dần đến tụt hậu xa thêm.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để đánh giá sự tương thích với công nghệ số và từ đó có các bổ sung, hoàn thiện.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã yêu cầu Bộ Tư pháp tập trung nghiên cứu, đề xuất cụ thể những vấn đề đặt ra hiện nay và đề xuất các giải pháp tập trung nghiên cứu, đề xuất cụ thể những vấn đề đặt ra hiện nay và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh quá trình xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi pháp luật trong bối cảnh chuyển đổi số. Thủ tướng cũng chỉ đạo công tác dự báo, phân tích, phản ứng chính sách phải phù hợp, chính xác, theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của đời sống.
Tuy các Bộ, ngành đã triển khai một loạt công việc liên quan đến xây dựng thể chế trong xã hội số, còn hàng loạt các bất cập về chính sách xuất hiện khi ứng dụng công nghệ số. Còn thiếu các chính sách bảo đảm cạnh tranh công bằng giữa kinh tế truyển thống và kinh tế số, về trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp nền tảng (như Uber, Air bnb...)
Còn thiếu các thể chế thúc đẩy phát triển chính phủ điện tử, chính quyền số, kinh tế số, tài sản số quốc gia... Cũng còn thiếu vắng các quy định pháp luật về quản lý hạ tầng số, thiếu các cơ sở pháp lý về chứng thực số trong các giao dịch trên môi trường mạng...
Một vấn đề khác cũng được người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh. Đó là tư duy làm chính sách, pháp luật trong bối cảnh CMCN4.0. Trong cuộc cách mạng này nảy sinh nhiều vấn đề mới, trước đây chưa từng đó, chưa từng xuất hiện, đòi hỏi phải có tư duy mới, có giải pháp vượt ra ngoài tư duy truyền thống. Muốn thúc đẩy đổi mới sáng tạo thì bản thân chính sách, cơ chế phải thoáng, mở và sáng tạo. Đây là vấn đề rất cơ bản để các chính sách có thể theo được các biển đổi rất nhanh trong CMCN4.0.
Ở tầm thành phố, Hải Phòng chỉ có thể ban hành các cơ chế, chính sách theo thẩm quyền. Tuy vậy, những cơ chế, chính sách này lại sát với thực tế, có tác dụng giải quyết ngang những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sản xuất. Thành phố Hải Phòng có truyền thống năng động, dám nghĩ dám làm, có nhiều điều kiện để phát huy truyền thống này trong CMCN4.0. Vấn đề là các cơ quan ban hành chính sách, các cá nhân đề xuất chính sách phải nắm vững các cấu trúc, đặc điểm của CMCN4.0, nắm vững đường lối, sâu sát với thực tiễn và dám chịu trách nhiệm. Đây cũng sẽ là một thách thức lớn. Một vấn đề khác là ở cơ sở, chúng ta phải nhạy bén, phát hiện các vấn để nảy sinh trong thực tiễn, nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ, Quốc hội để nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp.