Thời gian: 20/06/2025 11:06

Tiếp quản, giải phóng thành phố Hải Phòng

Ngày 13/5/1955 những lính Pháp cuối cùng rời khỏi thành phố Hải
Phòng tại Cảng Hải Phòng, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân Hải Phòng - Kiến An được hoàn toàn làm chủ cuộc sống của mình; 70 năm qua Đảng bộ, quân và dân thành phố Hải Phòng đã liên tục chiến đấu, xây dựng, phát triển, có những đóng góp xứng đáng cùng toàn Đảng, quân và dân cả nước giành những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa thời đại và lịch sử sâu sắc trong thế kỷ thứ XX và trong những năm đầu thế kỷ XXI.

I. TÌNH HÌNH CHUNG

1. Hoàn cảnh lịch sử, thuận lợi, khó khăn sau hiệp định Giơnevơ tác
động đến quá trình tiếp quản, giải phóng Hải Phòng

Ngày 07/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Để tránh nguy cơ
bị tiêu diệt, quân Pháp phải thu hẹp vùng chiếm đóng. Tại vùng đồng bằng Bắc bộ, chúng rút bỏ 175 vị trí, co về cố thủ Hà Nội - Hải Phòng - đường số 5. Khắp nội ngoại thành Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên và ngoại vi tỉnh lỵ Kiến An, quân Pháp bại trận kéo về rất đông.

Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam
được ký kết ngày 20/7/1954; thực hiện hiệp định Giơnevơ và sự thỏa thuận giữa phái đoàn quân sự Việt Nam và Pháp tại hội nghị Trung Giã, từ ngày 22/7/1954, các sắc lính của Pháp còn đóng ở những nơi trên miền Bắc Việt Nam lần lượt rút về các địa điểm tập kết chờ ngày chuyển vào miền Nam (Theo hiệp định Giơnevơ quân đội Pháp phải lần lượt rút lui khỏi các địa phương chiếm đóng ở phía Bắc vĩ tuyến 17, hạn đến ngày 19/5/1955 thì phải rút toàn bộ khỏi Hải Phòng là nơi trú quân tạm thời cuối cùng ở miền Bắc Việt Nam dưới sự giám sát của lực lượng Ủy ban quốc tế). Đến 07 giờ sáng ngày 11/8/1954 Pháp đã tập kết xong lực lượng vào những nơi đã quy định xung quanh trục Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng. Đến hết ngày 10/10/1954 Pháp hoàn tất việc triệt thoái quân đội khỏi khu tạm trú 80 ngày bao gồm thành phố Hà Nội và vùng phụ cận kéo dài đến hết địa phận Hưng Yên (Sau khi rút khỏi Hà Nội và vùng phụ cận, các lực lượng của Pháp được tạm trú trong khu 100 ngày bao gồm Kẻ Sặt, Cẩm Giàng, khu vực đường 18 Chí Linh, từ thị xã Hải
Dương đến Phú Thái; và trong khu 300 ngày kể từ ga Phú Thái và vùng phụ cận xuống đến Hải Phòng - Kiến An và Quảng Ninh), mở đầu cho việc rút toàn bộ lực lượng của chúng khỏi ba nước Đông Dương. Việc Pháp phải cam kết rút hết quân và thực tế đã và đang lần lượt rút là một thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến. Vùng giải phóng của ta mỗi ngày một mở rộng. Quyền làm chủ của nhân dân có điều kiện được phát huy. Khí thế chiến thắng và lòng tự hào của toàn thể nhân dân vùng tự do cũng như vùng địch còn tạm đóng quân dâng lên mạnh mẽ chưa từng thấy.

Trong khi các địa phương khác của miền Bắc được hưởng hoà bình, Đảng bộ, quân và dân Hải Phòng - Kiến An vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh buộc địch thực hiện hiệp định, tiến tới tiếp quản giải phóng thành phố. Chúng rút bỏ hàng loạt vị trí, dồn quân về Hải Phòng. Hải Phòng và Kiến An lúc này tràn ngập các loại binh chủng của đoàn quân viễn chinh Pháp ở Bắc bộ và các loại ngụy quân, có cả quân của “xứ công giáo tự trị” Bùi Chu, Phát Diệm. Các nơi này còn phải chứa chấp cả ngụy quyền từ thủ hiến, tỉnh trưởng đến tổng lý, xã ủy các nơi rút chạy theo Pháp cùng mọi thứ rác rưởi bám theo chúng. Ở những nơi các lực lượng của Pháp tạm đóng quân, các lực lượng vũ trang của ta rút ra ngoài, thì ở đó địch tạm thời khống chế tình hình. Nhưng tình thế lúc này đã khác trước. Thế và lực của địch đã suy yếu; Nhân dân ta dù đang phải sống
trong sự kìm kẹp của địch nhưng đã đứng ở thế tiến công. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm buộc đối phương tôn trọng triệt để lệnh ngừng bắn và rút khỏi các vùng còn lại đúng thời hạn, để giữ vững và củng cố hoà bình, tiến tới thống nhất đất nước chắc chắn còn nhiều khó khăn, gian khổ song đã được tiếp thêm nhiều sức mạnh mới, trong đó có cơ sở pháp lý của Hiệp định Giơnevơ và những Hiệp nghị sau đó về chuyển giao và tiếp quản.

Về phía Pháp, trước khi rút quân khỏi miền Bắc, chúng cấu kết với đế
quốc Mỹ và tay sai ra sức phá hoại, vơ vét tài sản, gây khó khăn cho ta trong công tác tiếp quản. Khó khăn trước mắt của ta là đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp không cam chịu thất bại đang tìm cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ, ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của dân tộc ta. Trong khi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã buộc phải kết thúc thì một cuộc chiến tranh xâm lược mới trên đất nước ta do đế quốc Mỹ đạo diễn và tiến hành lại đang bắt đầu. Mỹ phái tướng Côlin đến Hải Phòng với trên 200 chuyên viên, cố vấn đi theo để tăng cường chỉ đạo mọi hoạt động phá hoại đối với miền Bắc. Chúng cài cắm lại một số do thám, gián điệp ở những nơi quân đội Pháp đã và sẽ rút, và tung một số tên khác vào vùng giải phóng cũ của ta, để phá hoại miền Bắc đã được giải phóng và phục vụ cho kế hoạch của Mỹ đối với miền Bắc sau này.
Chúng hạ lệnh cho bọn tay sai phải bằng mọi cách cướp đi hoặc phá tất cả máy móc, tài sản trước khi rút. Chính Mỹ đã gây sức ép buộc một số công ty của người Pháp đang còn hy vọng ở lại làm ăn với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải thu gọn công việc, dãn thợ và nhân viên, tháo dỡ máy móc đem đi. Nham hiểm nhất là Mỹ âm mưu cưỡng ép đồng bào ta ở miền Bắc di cư vào Nam bằng đủ các thủ đoạn: đe dọa, cưỡng bức, mua chuộc, dùng giáo lý, thần quyền lung lạc và triệt để khai thác mọi sơ hở của ta, trước mắt nhằm gây mất ổn định miền Bắc và lâu dài là phục vụ cho một kế hoạch can thiệp sâu vào miền Nam Việt Nam.

Trong khi đó, đội quân thất trận của Pháp đóng trên địa bàn Hải Phòng -
Kiến An trong những ngày chờ cuốn gói xuống tàu thì hoảng loạn, vô kỷ luật, ra sức phá phách, cướp bóc. Lợi dụng lúc lực lượng vũ trang của ta đã rút ra ngoài khu vực địch tập kết, địch ngang nhiên tổ chức những cuộc hành quân vây ráp để khủng bố tinh thần nhân dân ta, bắt lính và cướp của. Ở Kiến An, chúng tổ chức 288 lần vây ráp, bắn chết 32 người, làm bị thương 171 người. Ở Hải Phòng, chỉ tính trong bốn tháng kể từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ, chúng vây ráp 133 cuộc, trên 200 lần nổ súng vào các khu dân cư, bắt 852 thanh niên, giam giữ 517 người, bắn chết một và làm bị thương 167 người. Chúng dụ dỗ cưỡng bức đồng bào công giáo di cư vào Nam; tổ chức nhiều nhóm phỉ gây rối ở một số nơi thuộc vùng Tây Bắc, Đông Bắc. Ở những nơi tập trung đồng bào theo đạo Thiên chúa, tình hình lúc này không ổn định.
Trong chiến tranh, địch sử dụng những phần tử phản động trong công giáo tổ chức vệ sĩ ở hầu hết các nhà thờ xứ, võ trang chống lại kháng chiến. Nay địch ra sức xuyên tạc chính sách của Đảng và Chính phủ ta đối với công giáo, kích động một số người gây mất trật tự, an ninh trong những làng có đạo và bằng mọi cách thúc ép giáo dân di cư vào Nam làm cho giáo dân hết sức hoang mang, bỏ cả công việc làm ăn.

Hải Phòng là thành phố lớn thứ hai miền Bắc, một thành phố công nghiệp, mà nước máy rất ít, nhân dân nội thành phải dùng nước không được khử trùng. Toàn thành phố chỉ có một trường trung học và 11 trường tiểu học với tổng số học sinh không quá 5.500 em. Y tế, về danh nghĩa có 11 nơi khám và chữa bệnh, nhưng thực tế chỉ có 5 nơi hoạt động mà hoạt động rất kém. Tháng nhiều nhất khám bệnh cho 2.500 người, cả năm 1954 mổ chữa mắt cho hai bệnh nhân, tiêm phòng dịch hầu như không năm nào làm, năm 1954 một số lớn trẻ nhỏ ở khu lao động đã chết vì đậu mùa. Gần đến ngày ta tiếp quản, thành phố có 15 vạn dân, trong đó trên 2 vạn công nhân thất nghiệp, ngoài ra còn trên 7 nghìn binh sĩ ngụy giải ngũ không nghề nghiệp. Các tệ nạn xã hội diễn ra rất trầm trọng.

Bức tranh toàn cảnh trên đây nói lên rằng chiến tranh tuy đã kết thúc
nhưng cơ bản mới chỉ là im tiếng súng, cuộc “chiến tranh không có tiếng súng” vẫn tiếp diễn gay go, quyết liệt. Trong cuộc chiến này có những lĩnh vực mà cán bộ, đảng viên ta chưa quen thuộc, đòi hỏi Đảng bộ quân và dân Hải Phòng - Kiến An một lần nữa phải vừa chiến đấu vừa nghiên cứu, học tập để thích nghi với điều kiện lịch sử mới và đáp ứng được yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới.

2. Nhiệm vụ mới của Đảng bộ quân và dân Hải Phòng - Kiến An
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Khu uỷ Tả ngạn và Ban chỉ đạo
khu 300 ngày, Thành uỷ Hải Phòng, Tỉnh uỷ Kiến An tiến hành đợt tuyên truyền giáo dục trong cán bộ, đảng viên, bộ đội, nhân dân về âm mưu của địch, quán triệt tình hình, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, xác định phương châm, phương pháp đấu tranh chống địch, hình thành đội ngũ cán bộ chuẩn bị cho tiếp quản. Lãnh đạo Nhân dân ta đã tiến hành các cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của địch để việc tiếp quản các vùng mới giải phóng diễn ra tốt đẹp.

Việc thực hiện Hiệp định đình chiến ở Bắc bộ tiến hành trong thời gian
gần 10 tháng. Hải Phòng - Kiến An là nơi địch tập kết quân để chuyển vào Nam. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều công việc nặng nề, phức tạp đang đặt ra cho Đảng bộ quân và dân Hải Phòng - Kiến An: Phải nắm vững tinh thần và nội dung Hiệp định, lãnh đạo chặt chẽ việc thi hành Hiệp định. Phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định. Không mắc mưu khiêu khích của bọn hiếu chiến. Không làm việc gì để thực dân Pháp vin cớ trì hoãn rút quân. Không những phải chú trọng bảo vệ lực lượng ta về mọi mặt mà còn phải biết nắm thời cơ thuận lợi tấn công làm tan rã hàng ngũ địch theo phương châm mới. Tích cực chuẩn bị việc trao đổi tù binh và đón tiếp
đồng bào ta bị thực dân Pháp bắt nay được trả về. Việc đấu tranh thi hành Hiệp định gắn chặt với vấn đề tiếp quản đô thị. Phải khẩn trương chuẩn bị, tổ chức tốt công tác tiếp quản các vùng sắp giải phóng, đặc biệt là Hải Phòng.

3. Đấu tranh buộc thực dân Pháp thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định
Giơnevơ

Trong gần mười tháng, công việc của cấp uỷ Đảng và các cấp chính
quyền thành phố Hải Phòng - tỉnh Kiến An hết sức bề bộn và dồn dập. Phải vừa lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi đối phương chấm dứt các hoạt động quân sự và bồi thường thiệt hại, chống cướp phá tài sản, chống cưỡng ép di cư, vừa tăng cường địch vận và chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng tiếp quản khi địch rút. Trong khi đó cán bộ ta phần lớn nằm bên ngoài, cán bộ tại chỗ, nhất là ở đô thị, rất thiếu và bỡ ngỡ; giao thông liên lạc giữa trong với ngoài lại chậm chạp. Để khắc phục tình hình này cơ quan lãnh đạo Đảng, bộ máy chính quyền và quân
sự thị xã Kiến An được kiện toàn; Hải Phòng đưa một số thành uỷ viên và 80 cán bộ vào nội thành để tăng cường chỉ đạo tại chỗ.

Đấu tranh chống địch bắt thanh niên vào lính ngụy đã diễn ra quyết liệt
ngay từ đầu. Cuộc vận động chống địch bắt thanh niên vào lính phù hợp với nguyện vọng và lợi ích thiết thân của mọi tầng lớp nhân dân nên nhanh chóng trở thành một phong trào đấu tranh của toàn dân. Ở Kiến An có nhiều cuộc đấu tranh lớn. Mở đầu các cuộc đấu tranh chính trị ở đây là cuộc đấu tranh chống lệnh của ngụy quyền bắt các gia đình phải treo cờ ba vạch. Địch khủng bố bắn chết một thiếu nhi và bắn bị thương ba người lớn. Lập tức hàng nghìn đồng bào thị xã và các huyện lân cận đấu tranh liên tiếp trong hai ngày 08 và 09/8/1954 phản đối địch tàn sát dân ta. Phát huy khí thế đó, nhiều cuộc đấu tranh chống địch bắt lính đã diễn ra và thu được thắng lợi. Nổi bật là cuộc đấu tranh của 800 người ở xã Duy Tân (An Lão) ngày 12/8, của 25.000 dân Kiến Thụy và An Lão
đang đắp đê buộc địch phải thả ngay 16 thanh niên trên đê, của 1.200 người xã Ngũ Đoan, Đoàn Xá, Tân Trào (Kiến Thụy) và của 3.000 người ở Hữu Bằng, Đại Đồng (Kiến Thụy) ngày 19/8, của nhân dân thị xã ngày 01/9/1954, v.v..
Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên nổ ra nhiều cuộc đấu tranh nhỏ. Kết quả là nơi nào cũng giành giật lại được khá nhiều người.

Phong trào đấu tranh chống địch cướp phá, di chuyển tài sản phát triển
khá sâu rộng. Địch muốn để ta tiếp nhận một cơ sở vật chất nghèo nàn và hỏng nát, không thể nhanh chóng ổn định được tình hình, trước khi rút quân, chúng vơ vét hết những thứ có thể vơ vét được, không mang đi được thì phá huỷ hoặc tháo đem đi những bộ phận then chốt. Tài liệu, hồ sơ cần thiết cho việc quản lý và vận hành thiết bị chúng cũng đốt hoặc chuyển đi. Gần đến ngày ta vào tiếp quản Hải Phòng, chúng ra lệnh đóng cửa nhà máy, hãng buôn, trường học, công tư sở, sa thải thợ và viên chức làm cho đô thị tiêu điều và để lại cho ta một gánh nặng đội quân thất nghiệp. Tình hình này diễn ra ở tất cả các nơi địch rút quân
và nơi nào chúng cũng vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta.
Ở Kiến An, từ cuối năm 1954 địch đã tháo dỡ các loại máy móc và thiết
bị, di chuyển các kho Quy Tức, Kha Lâm, Pháo Thủ, Comben, Cựu Viên, Sở lục lộ, Ty công chính, Máy đá núi Voi. Càng gần đến ngày rút khỏi Kiến An chúng càng khẩn trương làm việc này. Nhân dân Kiến An liên tiếp tổ chức 220 cuộc đấu tranh hợp pháp từ một trăm đến hai, ba nghìn người tham gia, gửi 609 đơn và cử nhiều đoàn đại biểu đến gặp Uỷ ban quốc tế đã có mặt ở địa phương, yêu cầu họ buộc phía Pháp phải thực hiện đúng điều 15d của Hiệp định đình chỉ chiến sự, không được cướp phá tài sản công cộng và xâm phạm đến tính mệnh và tài sản của thường dân. Nhưng địch bất chấp sự phản kháng vẫn tìm mọi cách thực hiện bằng được âm mưu của chúng. Ở những nơi nhân dân ta tập
trung đông, đấu tranh mạnh, chúng đem lực lượng quân sự đến đàn áp. Ngày 19/4/1955 địch đưa hơn một nghìn quân với 1 tàu chiến, 5 ca nô, 70 xe cơ giới   đến dỡ cầu phao thị xã. Hơn 3.000 đồng bào thị xã và huyện ngoại thị giằng co với địch. Bọn chỉ huy ra lệnh bắn, 120 đồng bào ta bị thương. Bà con đưa người bị thương đến Uỷ ban quốc tế đòi bồi thường thiệt hại. Ở đài thiên văn Phù Liễn, các nhân viên đã bảo vệ được máy và dụng cụ. Nhân dân Kiến An sau năm lần đấu tranh mà nòng cốt là lực lượng phụ nữ, đã giữ lại được cầu Nguyệt.
Cuộc đấu tranh giữ cầu phao Lãm Hà - Niệm Nghĩa cũng rất gay go, cuối cùng địch không những không lấy được cầu mà còn phải chiếu đèn pha cả đêm cho đồng bào ta san lấp hai bên mố cầu chúng vừa phá. Biết chị Nguyễn Thị Toan, cán bộ địch vận và tôn giáo vận huyện Kiến Thụy, là người lãnh đạo cuộc đấu tranh ở đây, địch cố tình cho xe chạy cán chết chị. Đám tang chị biến thành cuộc biểu tình phản đối của 3.000 người làm sục sôi khí thế đấu tranh của nhân dân địa phương.

Hải Phòng là nơi có nhiều cơ sở kinh tế, văn hoá, cũng là nơi mà tài sản
địch vơ vét các nơi được tập trung về đây để chuyển vào Nam. Tháng 01/1955, địch tổ chức bảy cuộc vận chuyển lớn, mang đi 7.000 tấn thiết bị, máy móc và hồ sơ tài liệu quý của phi trường Cát Bi cùng hơn 3.000 tấn của Sở Công chính thành phố, đồng thời đóng hòm nhiều tài sản của Sở Thương chính, công chính kiều lộ, máy nước, máy điện... Cán bộ ta lúc đầu chủ quan, sơ khoáng nên đấu tranh với địch yếu, ít kết quả. Sau khi được bổ khuyết, phong trào đấu tranh bảo vệ tài sản công cộng mạnh hơn. Trong năm tháng đầu năm 1955 đã có ít nhất 46 cuộc đấu tranh quan trọng, động viên được đông đảo công nhân và người lao động tích cực tham gia, có các tầng lớp nhân dân nội, ngoại thành hết lòng ủng
hộ và giúp đỡ. Địch dùng nhiều thủ đoạn đối phó: chỉ di chuyển vào ban đêm khi công nhân, viên chức không có ở sở; mời Uỷ ban quốc tế chứng kiến đối với số tài sản được đem đi, sau đó để lẫn vào đống hàng này rất nhiều thiết bị, vật liệu không được phép di chuyển; ra lệnh giới nghiêm không cho công nhân, viên chức vào sở và ngăn chặn nhân dân đến đấu tranh; cấm tụ họp đông người ở đường phố; hăm dọa những người tham gia đấu tranh và lùng bắt những phần tử trung kiên của ta; tăng cường dùng vũ lực đàn áp. Mặc dù vậy, nhân dân ta vẫn giữ vững đội ngũ, kiên quyết đấu tranh. Một chị công nhân đang mang thai nằm lăn ra đường không cho xe dịch di chuyển. Nhiều người đem cơm nắm, lương khô đến nằm lỳ ở sở cả ngày đêm. Bất chấp lưỡi lê, súng đạn của cả một trung đoàn lính Pháp và hiến binh cùng rất nhiều công an, mật vụ, và không chùn bước trước việc địch bắn 7 người bị thương, hàng nghìn công nhân, viên chức, nhân dân vẫn xông vào giữ được gần như nguyên vẹn thiết bị, dụng cụ ở nhà thương cạnh chợ Vườn Hoa và nhà thương chính, và buộc địch phải thả 18 người.

Trên 2.000 công nhân xi măng và mỏ đá Tràng Kênh được sự hỗ trợ của bà con lao động trong vùng đấu tranh kéo dài hàng tháng, cuối cùng giữ được tài sản của hai xí nghiệp. Ở cảng Hải Phòng, địch cho lính Âu - Phi đến lấy tàu Đỏ Giecmông, Sênu, Lơ Gan, tháo máy ở xưởng và các phao đèn biển, nhưng công nhân ta giữ lại được cả. Ở xí nghiệp hoả xa, địch 12 lần tổ chức cướp máy móc và tài liệu, hai lần quyết định sa thải 77 công nhân và cài tay chân thay vào đó, nhưng tất cả những lần đó chúng đều thất bại. Địch đưa 200 lính đến tháo dỡ máy và lấy phụ tùng dự trữ ở Nhà máy điện Cửa Cấm, nhưng không lấy được, anh em công nhân bảo đảm cho thành phố vẫn có điện khi ta vào tiếp quản. Ở Ty kiều lộ, ba lần địch lấy chuyển đi 700 tấn máy móc, vật liệu thì cả ba lần chúng phải đem trả về chỗ cũ do sự đấu tranh quyết liệt của trên 3.000 công nhân, viên chức và nhân dân, với sự can thiệp của Uỷ ban quốc tế và Uỷ ban Liên hợp đình chiến.

Dựa vào tài liệu kiểm kê tài sản do anh em công nhân, viên chức bí mật chuyển ra từ trước, đội hành chính của ta khi vào chuẩn bị tiếp quản còn đấu tranh buộc địch phải trả ra một số nữa đang bị cất giấu. Cùng với việc đấu tranh bảo vệ tài sản, Hải Phòng còn nổ ra hơn 70 cuộc đấu tranh chống dãn thợ và đòi tiền lương. Có cuộc đấu tranh kéo dài hàng tháng như ở pháo thủ, công chính kiều lộ, công chính thành phố... Nét đáng chú ý trong các cuộc đấu tranh này là đều có sự đoàn kết, tương trợ giữa công nhân Việt Nam và công nhân Hoa kiều. Đối với các xí nghiệp tư nhân, kể cả của Pháp kiều và Hoa kiều, thời gian đầu vận động họ ở lại kinh doanh, không di tản, đến lúc họ quyết tâm đi mới đấu tranh mạnh đòi tiền lương. Đối với các xí nghiệp nhà binh, trước mắt tập trung đấu tranh đòi được bảo đảm việc làm, gần đến ngày quân Pháp rút thì chuyển sang việc phân tán, cất giấu, phá hoại máy móc, vật liệu và đòi tiền lương, tiền thưởng.

Kết quả đấu tranh là phần lớn công nhân, viên chức ở thành phố đòi được số lương chính và tiền phụ cấp, người ít được 3.000 đồng Đông Dương, người nhiều được hơn 2 vạn đồng. Tỉnh uỷ Kiến An, Thành uỷ Hải Phòng chỉ đạo bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ phân tán về các làng công giáo, phối hợp với các lực lượng, để tuyên truyền, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch, vận động đồng bào ở lại quê hương. Tiểu đoàn 204 Kiến An về các thôn An Quý, Vạn Hoạch, Cổ Am, Nam Am, Hội Am. Đại đội 112 về các thôn Áng Ngoại, Cốc Rom, Xuân Cốc huyện Tiên Lãng. Đại đội 196 về các thôn Đông Côn, Đông Xuyên, Xuân Quang, Thúy Nẻo huyện Tiên Lãng. Bộ đội An Dương, An Lão, Kiến Thuỵ, Thuỷ Nguyên luồn sâu vào các thôn công giáo trong vùng địch tạm chiếm quanh thành phố Hải Phòng và tỉnh lỵ Kiến An. Thấy bộ đội về làng, các gia đình giáo dân, kể cả gia đình là cơ sở kháng chiến trước đây, cũng bỏ nhà cửa đến nhà thờ tập trung không tiếp đón. Nhiều gia đình đổ nước vào rơm, củi không cho bộ đội nấu cơm. Bà con không nghe vận động, tuyên truyền giáo dục, nhiều người bị kẻ xấu xúi giục gây xung đột, đánh đập bộ đội. Nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương, có đồng chí bị chém xả vai. Mặc dù vậy, cán bộ, đảng viên, bộ đội vẫn kiên trì giải thích chính sách tự do tín ngưỡng, khoan hồng của Chính phủ cho dân hiểu. Với những hành động tận tình đó đã làm cho bà con giáo dân nhận ra lẽ phải nên nhiều gia đình tình nguyện ở lại quê
hương. Nhiều cán bộ, chiến sĩ là đảng viên được phân công bí mật thâm nhập vào các trại tập trung giáo dân di cư ở An Lạc, Cam Lộ, Đồng Giới, trường Ngô Quyền, bãi Phong Lợi Thành (khu xi măng), trường Hàng Kênh, Xanh Giôdép để tuyên truyền vận động.

Trong các cuộc đấu tranh của nhân dân trong vùng tập kết 300 ngày
chuyển quân đều có cán bộ, chiến sĩ, đảng viên của lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt. Thành đội, Tỉnh đội và các cấp ủy đảng trong các đơn vị đã làm tốt công tác lãnh đạo, động viên các đảng viên, chiến sĩ không quản hy sinh, gian khổ, góp phần quan trọng phá tan những âm mưu thâm độc của địch. Lực lượng vũ trang Hải Phòng - Kiến An làm nhiệm vụ hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép dân di cư vào Nam, phá các âm mưu tháo gỡ máy móc chuyển vào Nam, bắt lính, gài gián điệp, chôn giấu vũ khí nhằm thực hiện kế hoạch hậu chiến của địch. Thành đội Hải Phòng tập trung khôi phục lực lượng tự vệ ở các xí nghiệp, đường phố. Trong một thời gian ngắn, tự vệ được thành lập ở nhiều nơi, tiêu biểu là Cảng có 34 tự vệ, Nhà máy Xi măng có 56 tự vệ, Sở Toa xe có 24, Sở Đèn có 8 tự vệ.

II. TIẾP QUẢN HẢI PHÒNG

1. Chủ trương, chính sách tiếp quản

Về công tác tiếp quản, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 vạch rõ
“việc trước mắt trong thời kỳ tiếp quản không phải là tiến hành những việc cải tạo xã hội, mà là ổn định trật tự xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trường làm cho mọi hoạt động của thành phố và nông thôn trở lại bình thường sau đó sẽ tiến hành những cải cách cần thiết, từng bước một thận trọng vững chắc... Khâu trung tâm của thành phố là phục hồi và nâng cao sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp. Ở vùng nông thôn mới giải phóng cũng vậy, cần ổn định đời sống và sản xuất, chưa tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ngay”.

Công tác tiếp quản vùng mới giải phóng được đặt thành một nhiệm
vụ quan trọng của các cấp uỷ Đảng và các cấp chính quyền. Biết bao vấn
đề phức tạp ở đây sẽ đặt ra cho công tác tiếp quản cũng như cho việc củng cố vùng giải phóng sau thời kỳ tiếp quản. Để việc tiếp quản được chu đáo, đúng với yêu cầu và các chính sách của Đảng, các ngành, các địa phương cho người thâm nhập ngay nội thành, nội thị để thông thạo địa bàn, điều tra nắm vững tình hình địch, tình hình các tầng lớp nhân dân. Kế hoạch tiếp quản được xây dựng gồm những nội dung chính: lấy tổ chức của địch làm đối tượng tổ chức tiếp quản, địch có cơ quan nào ta tổ chức tiếp quản cơ quan ấy. Tiếp quản theo hệ thống từ cơ quan đầu não của địch xuống đến các tổ chức phụ thuộc. Ngành nào tiếp quản ngành ấy. Tiếp quản ba mặt: công việc, người và tài sản. Việc phân phối sử dụng tài sản là thuộc quyền quyết định của Ban chỉ đạo tiếp quản cấp tỉnh, thành. Lấy bộ máy và cán bộ hiện có để tiếp quản, cấp dưới thiếu thì cấp trên tăng cường, cần thiết lắm mới lập thêm bộ máy mới và lấy thêm cán bộ mới. Lấy cán bộ tiếp quản thành phố nên hướng vào những người am hiểu đô thị. Cán bộ nào đi tiếp quản cũng phải nắm vững: biểu điều tra, nghiên cứu; chính sách chung và chính sách cụ thể đối với ngành chuyên môn mà người cán bộ ấy đi tiếp quản; và tinh thần kỷ luật. Bộ đội tham gia tiếp quản phải được phân công, phân nhiệm rõ ràng và giáo dục chu đáo. Địa phương nào cũng cần có tiểu ban chuyên trách công việc tiếp quản ngoại thành, ngoại thị. Trình tự vào tiếp quản được quy định cụ thể: quân báo vào trước nắm tình hình. Lần lượt tiếp theo là một đơn vị nhỏ vào gỡ mìn, thuốc nổ nếu có. Tuyên truyền xung phong vào làm nhiệm vụ giải thích chính sách, ổn định nhân tâm. Các đơn vị cảnh giới vào làm nhiệm vụ canh gác. Các ngành chuyên môn vào tiếp
quản cơ quan, công sở thuộc ngành mình. Cuối cùng, đại bộ phận lực lượng bộ đội tiếp quản tiến vào thành phố, thị xã được giải phóng. Trình tự này có thể điều chỉnh linh hoạt cho sát hợp với diễn biến tình hình từng nơi, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc: tiếp cận nhanh, tiếp quản gọn, đảm bảo an toàn, không để có sự gián đoạn và sự cố đáng tiếc. Lệnh thiết quân luật được ban hành ngay, nhưng cố gắng thủ tiêu lệnh này càng nhanh càng tốt để mọi sinh hoạt sớm được trở lại bình thường.

Hải Phòng có thể chỉ định một “Hội đồng đại biểu lâm thời” gồm đại
biểu các giới và một số nhân sĩ tiến bộ để qua hội đồng này đặt mối quan
hệ mật thiết giữa Uỷ ban quân chính với quần chúng trong công việc quản lý thành phố. Hội đồng này có tính chất tư vấn; quyền quyết định cuối cùng thuộc về Uỷ ban quân chính.

2. Chuẩn bị lực lượng tiếp quản thành phố
Ngày 31/01/1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 4 
“Về việc thành lập Ban chỉ đạo khu tập kết 300 ngày”. Khu này gồm tỉnh
Quảng Yên, tỉnh Kiến An, đặc khu Hòn Gai và thành phố Hải Phòng. Ban này phụ trách trước Trung ương lãnh đạo mọi mặt công tác thuộc khu tập kết cho đến khi hoàn thành công tác tiếp quản khu đó.
Chuẩn bị cho công tác tiếp quản, Khu uỷ Tả ngạn và Ban chỉ đạo khu
vực 300 ngày đã mở lớp bồi dưỡng cho trên 300 cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, những người đã được tôi luyện trong chiến đấu, có kinh nghiệm trong đấu tranh với địch, tổ chức thành các đội hành chính và trật tự vào trước để nhận bàn giao của địch. Đầu tháng 4/1955, Thành uỷ Hải Phòng họp đề ra những việc cần làm để đối phó với những âm mưu của địch, tiến hành tiếp quản và ổn định tình hình sau đó.

Về chuẩn bị tiếp quản, Ban yêu cầu quân đội và công an nắm lại tình
hình địch. Lúc này có hai hiện tượng đáng chú ý: tướng Đờ Bôpho (De
Beaufort) trưởng đoàn đại biểu Pháp trong Uỷ ban Liên hợp đình chiến vừa bắn tin: nếu ta không giải quyết sớm cho chúng một số bất động sản ở Hà Nội và Hải Phòng mà chúng lập luận đó là tài sản của nước Pháp thì thời hạn rút khỏi khu chu vi Hải Phòng có thể lui lại một tháng. Pháp lại vừa đưa ra bản cáo thị đặt khu chu vi Hải Phòng trong tình trạng báo động. 
Việc chuẩn bị về cán bộ và định biên chế bộ máy Dân, Chính, Đảng cho các thành phố, thị xã được tiến hành khẩn trương với sự hỗ trợ về người của khu Tả Ngạn đối với Hải Phòng và Liên khu Việt Bắc đối với Quảng Yên, Hòn Gai. Bố trí cán bộ để xây dựng nhanh bộ đội địa phương và tự vệ công nhân trong vùng sắp giải phóng (lúc đầu Hải Phòng chỉ có tất cả 200 cán bộ, sau khu Tả ngạn bổ sung, tăng dần lên đến 3.938 người).
Về mặt tổ chức, Ban chỉ đạo khu 300 ngày đề nghị Trung ương giao
cho Hải Phòng quản lý huyện Hải An để tiện cho việc chuẩn bị và tiếp quản.
Các tỉnh và thành phố Hải Phòng chuẩn bị để xin ý kiến Trung ương việc quy định địa giới ngoại thị, ngoại thành và phân định trách nhiệm của mỗi địa phương trong việc tiếp quản các đảo. Đề nghị Trung ương cho đặt Hải Phòng thành một thành phố trực thuộc Trung ương; đặt thị trấn Đồ Sơn trực thuộc tỉnh Kiến An… Lãnh đạo chung công việc tiếp quản là các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, không tổ chức riêng Đảng uỷ tiếp quản. Thị trấn nào chưa có Đảng uỷ thì lập ban cán sự thị trấn để lãnh đạo công tác tiếp quản ở đấy.

3. Tiếp quản tỉnh lỵ Kiến An

Ngày 10/5/1955 vào tiếp quản thị xã Kiến An: Để tổ chức việc tiếp quản,
tỉnh thành lập Uỷ ban quân chính do đồng chí Trần Việt Hùng làm chủ tịch, đồng chí Văn Dụ, trung đoàn phó Trung đoàn 137 làm phó chủ tịch và 6 uỷ viên, trong đó có đồng chí trưởng ban cán sự kiêm chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính thị xã Kiến An. Theo sự thoả thuận giữa ta và Pháp, 6 giờ sáng ngày 06/5/1955 đội hành chính của ta vào trước để nhận bàn giao các công sở của đối phương. Ngày 08/5, đội trật tự và cảnh vệ của ta vào để nhận bàn giao về trật tự trị an, ngoài ra còn có nhiệm vụ chuẩn bị cho các lực lượng vào sau tiếp quản được tốt. Trước đó, ngày 28/4 ta đã tiếp quản một phần huyện An Lão,
An Dương cùng lúc với Hải Dương tiếp quản huyện Kinh Môn và Kim Thành. 07 giờ sáng ngày 10/5/1955, các lực lượng tiếp quản tiến theo hai mũi vào thị xã, dẫn đầu là bộ đội trinh sát và công binh, tiếp theo là quân y, công an trật tự, thanh niên xung phong và các cán bộ dân chính. Ngay sau khi quân địch vừa rút đi, nhân dân thị xã đã dựng cổng chào, kết hoa, trương băng cờ, khẩu hiệu ở các đường phố hân hoan chào đón đoàn quân tiếp quản.
Ngày 12/5 toàn huyện An Dương được giải phóng. Ngày 14/5, ta tiếp
quản huyện Kiến Thụy. Ngày 15/5, tiếp quản Đồ Sơn rất trật tự và an toàn. Đến 15 giờ ngày hôm đó cả tỉnh Kiến An hoàn toàn được giải phóng. Công việc tiếp quản diễn ra thuận lợi, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: “Các đơn vị bộ đội và cán bộ, nhân viên các ngành quân dân chính đảng đã tiếp thu khu chu vi Hải Phòng đúng kế hoạch, thế là tốt”.

4. Tiếp quản thành phố Hải Phòng

Địa bàn cuối cùng mà ta vào tiếp quản là thành phố Hải Phòng, một thành phố công nghiệp và là hải cảng lớn nhất miền Bắc.
Trước ngày tiếp quản, Thành uỷ Hải Phòng tập trung sự chỉ đạo vào ba
việc chính: đẩy mạnh phong trào quần chúng đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định Giơnevơ, bảo vệ người và của cải của nhân dân, tài sản công cộng; đấu tranh trong Uỷ ban Liên hiệp đình chiến buộc địch chuyển giao thành phố cho ta theo đúng thời hạn quy định trong Hiệp định Giơnevơ, có trật tự và an toàn; tích cực chuẩn bị về mọi mặt để tiếp quản thành phố khi địch rút theo đúng phương châm: nhanh, gọn, tốt. Từ ngày 5 đến ngày 10/4/1955, Thành uỷ họp Hội nghị cán bộ toàn thành lần thứ nhất có trên 130 người dự, dưới sự chủ trì của đồng chí Đỗ Mười mới được Trung ương cử về làm Bí thư Thành uỷ. Hội nghị nghe thông báo Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), nghiên cứu tình hình chung và bàn nhiệm vụ, kế hoạch, phương pháp tiếp quản. Ngày 05/5/1955, đội hành chính lên đường vào nội thành trước, riêng 20 cán bộ có trách nhiệm vào Hải An thì lùi lại đến ngày 8/5. Đội gồm 327 cán bộ các ngành và 43 nhân viên phục vụ, do các đồng chí Nguyễn Tài, Hoàng Mậu và Tô Duy phụ trách.

Đội trật tự gồm 150 cán bộ do đồng chí Trần Đông, thành uỷ viên, phụ
trách, có nhiệm vụ tiếp quản các cơ quan cảnh sát của địch từ cấp thành phố đến quận, đồn. Sáng 09/5/1955, đội vào nội thành. 20 giờ ngày 12/5 làm việc phiên cuối cùng, đến 2 giờ sáng ngày 13/5/1955 mới ký được biên bản giao nhận. Vào thời gian đó, đại quân ta đang chuẩn bị tiến vào thành phố. Sáng sớm ngày 13/5, các cánh quân của Đại đoàn 320 (Trung đoàn 42, 48, 52 và 64) phối thuộc Trung đoàn bộ binh 42 Khu Tả ngạn, những người con sinh ra từ thành phố Cảng Hải Phòng tiến về giải phóng thành phố. Quân ta đi đến đâu, cổng chào, biển người, cờ hoa mọc lên tới đó. Các đường phố trở thành những làn sóng người, các tầng lớp nhân dân hồ hởi chào đón đoàn quân giải phóng. Chiều ngày 13/5/1955, bộ đội ta trên đất Hải Phòng đứng gác ở bến Cảng đã giám sát chiếc tàu Đi rin Booc đô chở những binh sĩ Pháp cuối cùng rời khỏi bến Cảng. Cùng lúc, đoàn tàu hỏa trương cờ đỏ sao vàng, treo chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Ga Hải Phòng kéo một hồi còi dài tiến vào Cảng. Ở tất cả các nhà máy, công sở cũng đồng loạt kéo còi, treo cờ đỏ sao vàng chào mừng giờ phút lịch sử thành phố được hoàn toàn giải phóng.
Tiếp theo đó, trong các ngày 14/5/1955, ta tiếp quản huyện Kiến Thụy.
Ngày 15/5/1955, tại bến Nghiêng Đồ Sơn, những tên lính thực dân Pháp cuối cùng xuống tầu rút khỏi miền Bắc. Ngày 16/5/1955, ta tiếp quản hai huyện đảo Cát Hải, Cát Bà và quần đảo Long Châu. Ngày 13/5/1955 đã đi vào lịch sử, mãi mãi khắc sâu vào tâm trí người dân đất Cảng “Trung dũng”, “Luôn luôn Trung dũng”, các chữ vàng do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khen tặng. Hải Phòng hoàn toàn giải phóng, miền Bắc đã giải phóng hoàn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi sát sao quá trình tiếp quản Hải Phòng. Người xúc động viết: “Trải qua tủi nhục hơn 80 năm, nay Hải Phòng đã vươn mình dậy, giải phóng. Khắp phố phường cờ đỏ sao vàng tung bay rực rỡ như hoa nở mùa xuân. Hàng vạn đồng bào già trẻ gái trai, đủ các tầng lớp, tủa ra hoan nghênh bộ đội và cán bộ. Nét mặt mọi người sung sướng vui mừng, như mùa xuân hoa nở. Những năm chịu đựng gian khổ, đoàn kết chiến đấu, đã kết quả vẻ vang: miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng. Hải Phòng đã giải phóng hoàn toàn”.2
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời khắc thành phố Hải Phòng
hoàn toàn được giải phóng ngày 13/5/1955 là thời khắc mùa xuân của cuộc sống mới, chế độ mới bừng lên giữa mùa hè của thành phố Cảng trải qua 83 năm đấu tranh anh dũng, kiên cường.

Ý nghĩa lịch sử  

Sự kiện giải phóng Hải Phòng có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu thắng
lợi của ta trong đấu tranh đòi thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bè lũ tay sai phải thực thi Hiệp định Giơ ne vơ, rút quân khỏi miền Bắc. Miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng. Sự kiện giải phóng Hải Phòng đã mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Việc ta tiếp quản thành công thành phố Hải Phòng đã tạo cơ sở, điều kiện để chúng ta xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh của miền Bắc, để Hải Phòng làm tròn vai trò là cầu nối giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; để miền Bắc làm tròn vai trò là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại; để Hải Phòng luôn nhận thức rõ trách nhiệm đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, dựng xây thành phố và đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những thành tựu to lớn mà Đảng bộ, quân và dân thành phố Hải Phòng
giành được trong 70 năm sau ngày thành phố hoàn toàn được giải phóng đãchứng minh ý nghĩa lịch sử vô cùng sâu sắc này./.

Nguồn: Hội thảo khoa học "70 năm xây dựng và phát triển Hải Phòng - Thành tựu và khát vọng vươn mình"

Lượt truy cập: 523253
Trực tuyến: ...

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT HẢI PHÒNG

Trưởng Ban biên tập: ThS. Nguyễn Văn Kính - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hải Phòng

 Địa chỉ: Số 6-8 Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3745.363

 Email: lienhiepkhkt@haiphong.gov.vn