Thời gian: 08/06/2025 09:39

Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học- công nghệ trong khát vọng vươn mình của thành phố Hải Phòng

1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; của Đảng và Nhà nuớc về vai trò của đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ đối với sự phát triển đất nước

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao, coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp cách mạng. Thấm nhuần quan điểm của dân tộc "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm khoa học, toàn diện, xuyên suốt về trí thức và đã sớm khẳng định vai trò quan trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”.

Nói về vai trò của đội ngũ trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Để trí thức làm tốt vai trò quan trọng hay “sứ mệnh” của mình đối với dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, nhiệm vụ của đội ngũ trí thức là phải luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng; phải kết hợp lý luận với thực tiễn; phải không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật và nghiệp vụ; phải biết kế thừa và phát huy nền văn hóa của dân tộc và ra sức học tập, vận dụng sáng tạo những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, những kinh nghiệm tiên tiến của các nước anh em... trong công tác nghiên cứu và lao động thực tiễn.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức khoa học – công nghệ nói riêng có uy tín và tầm ảnh hưởng to lớn, có những điều kiện thuận lợi để tiếp thu những tri thức mới nhất, có những đóng góp trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước ngày càng phát triển, hội nhập với nền kinh tế thế giới, đời sống nhân dân được cải thiện. Đội ngũ trí thức được xem như cánh tay phải đắc lực giúp cho Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách. Trí thức khoa học – công nghệ cũng đã có nhiều hoạt động, đóng góp hiệu quả và đạt được những thành tích đáng ghi nhận trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế - văn hóa - xã hội.

2. Quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức khoa học – công nghệ thành phố trong 70 năm qua

Những năm đầu sau ngày giải phóng, khái niệm về khoa học và kỹ thuật trong cộng đồng người dân thành phố vẫn còn khá bỡ ngỡ, kiến thức nói chung, kiến thức khoa học và kỹ thuật nói riêng còn nhiều hạn chế. Chỉ 4 năm sau ngày Hải Phòng giải phóng, và chỉ hơn 2 tháng sau khi Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 016-SL ngày 4/3/1959 thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), Ban Kỹ thuật Hải Phòng được thành lập theo Nghị quyết số 167/NQ-TU ngày 26/6/1959 của Ban Thường vụ Thành uỷ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hải Phòng, đánh dấu một mốc quan trọng khẳng định vị trí của khoa học – kỹ thuật đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Cảng.

Cùng với đó, cuối năm 1959, Hội Phổ biến khoa học kỹ thuật thành phố (có thể coi là tổ chức tiền thân của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật bây giờ) đã được thành lập, với số lượng cán bộ Hội rất ít ỏi, chỉ khoảng 5-6 người, làm việc trong một gian phòng diện tích không quá 40 m2 trong trụ sở của Sở Công nghiệp tại số 3 Cù Chính Lan (nay là số 24 Cù Chính Lan). Hội do ông Nguyễn Văn Phương, Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ, Giám đốc Sở Công nghiệp kiêm phụ trách Hội; các thành viên Ban chấp hành Hội gồm hầu hết là các vị trí thức, lãnh đạo các ban, ngành thành phố. Sau này, Luật sư Vũ Trọng Khánh, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính Hải Phòng làm Chủ tịch Hội cho đến khi Hội sáp nhập vào Ban Khoa học – Kỹ thuật thành phố. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, cách đây hơn 38 năm, ngày 18/2/1987, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố được thành lập, với chức năng tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học công nghệ nhiều chuyên ngành, nhiều trình độ; với nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tư vấn, phản biện và giám định xã hội, tôn vinh trí thức và khích lệ sáng tạo kỹ thuật, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.

Trải qua 66 năm, tên gọi của cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ của thành phố đã nhiều lần thay đổi, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị qua từng thời kỳ: Ban Kỹ thuật (1959), Ban Khoa học kỹ thuật (1964), Ban Khoa học và Kỹ thuật (1974), Uỷ ban Khoa học & Kỹ thuật (1983), Ban Khoa học & kỹ thuật (1988), Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1993), từ năm 2003 đến nay là Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN). Mới đây, từ ngày 1/3/2025, Sở Khoa học và Công nghệ được tích hợp thêm chức năng quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo, công nghệ thông tin – truyền thông, chuyển đổi số.

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố, từ 8 Hội thành viên với gần 4000 hội viên khi thành lập năm 1987, đến nay đã là đầu mối tập hợp của 48 tổ chức, với 28 tổ chức Hội thành viên, 20 đơn vị trực thuộc (8 câu lạc bộ, 1 viện nghiên cứu, 11 trung tâm nghiên cứu ứng dụng KHCN), với tổng số hội viên trí thức KHCN trên phạm vi toàn thành phố gần 65.000 người, bộ máy cơ quan thường trực từ chỗ chỉ với 3 cán bộ, nhân viên trong biên chế, đến nay gồm 3 Lãnh đạo Liên hiệp Hội chuyên trách, Văn phòng và 2 Ban chuyên môn với 9 biên chế được giao.

Hoạt động khoa học kỹ thuật trên địa bàn thành phố vào những thập niên 60-90 của thế kỷ 20 đã từng bước được nâng tầm và mở rộng thành các hoạt động khoa học và công nghệ được Luật định từ sau năm 2000. Các ngành/lĩnh vực khoa học và công nghệ của thành phố cũng từng bước được phát triển, ngày càng đa dạng hoá về các loại hình hoạt động, mở rộng cả về quy mô lẫn chiều sâu.

Tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá tr sản xuất công nghiệp liên tục tăng, từ 20,52% năm 2011, lên 33,9% năm 2015, 40,4% năm 2022. Tốc độ đổi mới công nghệ của thành phố qua các năm từ 2013-2023 lần lượt là 10,22%; 9,09%; 8,0%; 9,85%; 11,02%; 12,5%; 14%, 15%; 15%; 15%; trung bình đạt 13,3%/năm. Tỷ trọng đóng góp của các năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) vào mức tăng trưởng GDP của thành phố những năm gần đây duy trì ở mức cao: năm 2015 đạt 32,4%; giai đoạn 2011-2016 là 33,3%; năm 2020 đạt 40,43%; năm 2022 đạt 42,3%.

Đội ngũ cán bộ KH&CN thành phố ngày càng lớn mạnh, tăng về số lượng, nâng về trình độ và chất lượng. Tính đến tháng 3 năm 2023, tổng số cán bộ KH&CN làm việc trong các trường đại học, cao đẳng và các tổ chức KH&CN của thành phố đã đạt số lượng 4.801 người. Số lượng nhân lực có trình độ trên đại học là 2.476 người, chiếm 53,72% (vượt chỉ tiêu của Nghị quyết số 08/NQ-TU), trong đó số lượng giáo sư, phó giáo sư là 103 (chiếm tỷ lệ 2,15%); tiến sĩ khoa học, tiến sĩ là 328 (chiếm tỷ lệ 6,83%); thạc sĩ là 2.148 (chiếm tỷ lệ 44,74%).

Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ thành phố, sau gần 2/3 thế kỷ xây dựng và phát triển, đã có bước chuyển mình lớn lao, khẳng định vai trò, vị trí và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố Cảng.    

3. Vai trò, sứ mệnh và một số yêu cầu về phát triển đội ngũ trí thức khoa học – công nghệ trong khát vọng vươn mình của thành phố

Là thành phố ven biển, nằm ở vị trí trung tâm Vùng duyên hải Bắc Bộ, đầu mối giao thông quan trọng, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, với đầy đủ 5 loại hình giao thông, kết nối, giao lưu rất thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế và là một mắt xích quan trọng của hai Hành lang kinh tế chiến lược. Hải Phòng có điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế biển, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp nhận các thành tựu khoa học và công nghệ, tinh hoa văn hoá của thế giới.

Hải Phòng là thành phố cảng, trung tâm công nghiệp có bề dày lịch sử và trình độ phát triển cao hơn hầu hết các tỉnh, thành phố ở Vùng Đồng bằng sông Hồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị hóa của thành phố những năm gần đây cao hơn đa số các địa phương trong vùng và cả nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện và hiện đại, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho Hải Phòng những năm tới, theo 03 trụ cột kinh tế: công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ cảng biển - logistics và du lịch - thương mại.

- Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: Xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoả; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế biển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở Châu Á; trật tự, an toàn hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Các nội dung định hướng tại Nghị quyết số 45-NQ/TW cũng thể hiện khát vọng vươn mình của thành phố Cảng, với quyết tâm chính trị lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố; có truyền thống đi đầu trong đổi mới, sáng tạo, cách làm, là yếu tố quan trọng hàng đầu để tiếp cận với thế giới, với tri thức mới, nắm bắt những cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những nhân tố mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, vì sự phát triển của thành phố.

Hải Phòng có nguồn nhân lực dồi dào, được đào tạo và chất lượng cao; có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đông đảo; năng lực đào tạo nguồn nhân lực có nhiều ưu thế. Hơn lúc nào hết, đội ngũ trí thức khoa học – công nghệ của thành phố đang đứng trước một sứ mệnh cao cả và có vai trò quan trọng trong việc đóng góp công sức, trí tuệ để hoàn thành các mục tiêu phát triển và khát vọng vươn mình của thành phố.

Một số yêu cầu về phát triển đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ nhằm đáp ứng khát vọng vươn mình của thành phố trong giai đoạn phát triển mới:

3.1. Các yêu cầu về phát triển đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới

Phát triển đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ đóng vai trò động lực, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Người làm công tác khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trên các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ tiên tiến và các dịch vụ khoa học, công nghệ khác. Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ tiếp tục khẳng định được vai trò động lực, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển của KH-CN thành phố thông qua việc tập trung xây dựng nhiệm vụ khoa học và công nghệ có quy mô lớn, theo cụm nhiệm vụ để giải quyết những vấn đề cấp thiết, trọng tâm, trọng điểm.

3.2. Yêu cầu về tăng cường đóng góp của đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ

Đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ đóng góp tích cực vào nghiên cứu, xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược chương trình phát triển của thành phố. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo; nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp phần chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của thành phố, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới. Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài. Sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

3.3. Yêu cầu về tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chú trọng tạo lập môi trường và điều kiện để trí thức yên tâm lao động, sáng tạo, cống hiến; được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của mình. Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, các tác giả có những công trình tiêu biểu, có nhiều đóng góp cho đất nước.

3.4. Yêu cầu về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

Các cấp ủy đảng coi công tác xây dựng đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên; tích cực chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, làm cho toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức. Chăm lo, củng cố, kiện toàn, phát triển các hội trí thức, đặc biệt quan tâm củng cố và phát huy vai trò của tổ chức đảng trong các hội trí thức. Ban hành các chủ trương, lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các chính sách, chế độ, quy định cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ trí thức; về thu hút, sử dụng, tôn vinh trí thức.

5. Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát huy hiệu quả vai trò của đội ngũ trí thức khoa học – công nghệ trong sự nghiệp phát triển thành phố

5.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; nhận thức vị trí, vai trò của các hội trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức; để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc, đoàn kết phấn đấu, lao động sáng tạo, hoàn thành tốt trọng trách trong thời kỳ mới. Hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức; văn hóa đổi mới sáng tạo.

- Lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hóa các chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp phát triển đội ngũ trí thức của Đảng thành các chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện nhằm phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ thành phố.

Những người đứng đầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp có trách nhiệm định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của đội ngũ trí thức trong việc hoạch định đường lối, chính sách của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.

- Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc kiện toàn, phát triển các hội trí thức.

5.2. Công tác quản lý của Nhà nước

5.2.1. Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức

- Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh.

- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau cho các lĩnh vực khoa học và công nghệ, đảm bảo đầu tư ngân sách cho hoạt động khoa học và công nghệ đạt chỉ tiêu 2% tổng chi ngân sách thành phố theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ, đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học và công nghệ.

Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ.

5.2.2. Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức

- Đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ; xây dựng và thực hiện cơ chế tạo điều kiện để trí thức phát triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất nước.

- Rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động, sáng tạo của mình.

Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách để động viên và tiếp tục sử dụng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với những trí thức có trình độ cao, năng lực và sức khỏe đã hết tuổi lao động.

- Đổi mới, nâng cao chất lượng xét tặng Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Giải thưởng Thành phố về khoa học và công nghệ, đảm bảo thiết thực, hiệu quả.

Rà soát, điều chỉnh các quy định về tổ chức các hội thi, cuộc thi sáng tạo kỹ thuật để ghi nhận, tôn vinh tác giả các công trình sáng tạo tiêu biểu, đóng góp cho sự nghiệp phát triển của thành phố. Xây dựng và ban hành Quy chế xét chọn, tôn vinh danh hiệu Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu.

- Xây dựng chính sách thu hút, tập hợp trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước tích cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới...cho thành phố; trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

5.2.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng tri thức

- Tiếp tục triển khai đổi mới căn bản, toàn diện công tác giáo dục và đào tạo thực hiện Nghị quyết số 29-NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương 8 (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nghĩa và hội nhập quốc tế”. Tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.

- Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước.

- Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng Trường Đại học Hàng hải Việt Nam ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, Trường Đại học Hải Phòng trở thành đại học đa ngành quy mô vùng. Tạo điều kiện để các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại thành phố.

- Tiếp tục xây dựng, triển khai các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi (cán bộ quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã, các chủ trang trại), đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học và công nghệ đầu đàn của thành phố. Xây dựng kế hoạch đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà thành phố có nhu cầu bức thiết. Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, cán bộ kế cận.

- Áp dụng chính sách định kỳ và cơ chế bảo đảm chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ trí thức; khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn.

3.2.4. Đề cao trách nhiệm của trí thức khoa học – công nghệ, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức

- Xây dựng quy chế, cơ chế thông tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương.

Tăng cường sinh hoạt tư tưởng, phát huy trách nhiệm đội ngũ trí thức trong rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp, như lòng yêu nước, tinh thần lao động sáng tạo, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức, lối sống...

- Tạo cơ hội để trí thức khoa học – công nghệ tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí.

- Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt trong việc tập hợp, đoàn kết và phát huy sức sáng tạo của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật, các hội khoa học và kỹ thuật chuyên ngành, các hội nghề nghiệp vào xây dựng và phát triển thành phố.

5.3. Về đóng góp của đội ngũ trí thức khoa học – công nghệ

- Nâng cao trình độ, kỹ năng, trau dồi đạo đức công vụ, cải thiện năng lực lãnh đạo quản lý, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các cơ quan Nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của thành phố.

Thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ, nhất là một số ngành, lĩnh vực mới có tiềm năng, thế mạnh. Ưu tiên các nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng, tiếp thu, đổi mới công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường; ứng dụng phát triển công nghệ cho ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ cao; công nghiệp sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Phát triển các ngành công nghiệp cơ khí chế tạo, điện tử gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ thành phố. Thúc đẩy công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, tăng trưởng nhanh và bền vững, góp phần đưa Hải Phòng thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại, bắt kịp cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh học. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong cải cách hành chính, xây dựng đô thị thông minh, bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm, chuyển giao, ứng dụng và phát triển công nghệ, kỹ thuật cao làm đòn bẩy cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành, lĩnh vực trọng điểm. Tiêu chuẩn hóa, tăng cường quản lý, giám sát các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam; ngăn chặn việc ứng dụng, chuyển giao, sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.

- Đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.

5.4. Các tổ chức đại diện của đội ngũ trí thức khoa học- công nghệ

- Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật và các tổ chức thành viên, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức khoa học – công nghệ.

- Tham mưu ban hành cơ chế tư vấn, phản biện và giám định xã hội; tổ chức thực hiện và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội và các hội thảo khoa học để tập hợp và phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức tham gia tư vấn, giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong thực tế đặt ra, tích cực đóng góp ý tưởng, trí tuệ vào quá trình hoạch định chính sách của địa phương và phản biện, giám định các chủ trương, chính sách, các quy hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

- Nâng cao chất lượng các hội thi, cuộc thi sáng tạo kỹ thuật, triển lãm kết quả lao động sáng tạo, tổng kết và khen thưởng hoạt động sáng kiến hằng năm và các hoạt động khác để tôn vinh tổ chức, cá nhân trí thức điển hình và biểu dương các sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội.

- Tổ chức các hoạt động để trí thức giao lưu, học hỏi, bổ sung, cập nhật kiến thức mới; tích cực truyền bá những tri thức tiến bộ, phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật trong cộng đồng và áp dụng vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí.

Lượt truy cập: 517317
Trực tuyến: ...

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT HẢI PHÒNG

Trưởng Ban biên tập: ThS. Nguyễn Văn Kính - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hải Phòng

 Địa chỉ: Số 6-8 Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3745.363

 Email: lienhiepkhkt@haiphong.gov.vn