1. Đặt vấn đề
Thuật ngữ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) lần đầu tiên đề cập đến năm 2011. Do tính cấp bách và tầm quan trọng của cuộc cách mạng này mà ngay sau khi được đề cập, các chính phủ trên thế giới như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều quốc gia khác đã có chiến lược cho cuộc cách mạng này. Sự nghiên cứu về CMCN 4.0 được đề cập tới nhiều góc độ. Trong đó, đáng kể là những nghiên cứu về tác động mạnh mẽ và toàn diện của CMCN 4.0 với kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp độ toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Các tác động chỉ ra tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách thức sâu sắc, dường như không giới hạn đối với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam và Thành phố Hải Phòng. Thể hiện rõ nét sự quyết tâm cao trong quản trị quốc gia và địa phương là vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0.
Những thay đổi vô cùng lớn trong đời sống, kinh tế xã hội cũng tác động mạnh lên giáo dục đại học trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu mới của thời đại. Bài viết này mong muốn góp phần làm rõ hơn về năng lực tiếp cận cuộc CMCN4.0 dưới góc nhìn đặc điểm nguồn nhân lực, từ đó phân tích những yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của Thành phố Hải Phòng. Trên cơ sở kết hợp với những dữ liệu về thực trạng nguồn nhân lực của thành phố Hải Phòng, bài viết đưa ra những hàm ý chính sách đối với giáo dục đào tạo đại học nói chung và Trường Đại học Hải Phòng nói riêng. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn kết hợp với những phân tích và nhận định của nhóm tác giả.
2. Khái quát về năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Đặc trưng cơ bản của Cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động đối với giáo dục đại học được thể hiện như sau:
Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự hợp nhất giữa các lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật số, sinh học để giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, sự kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực, các hệ thống kết nối internet. Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ phương thức sản xuất và phương pháp quản trị “các nhà máy thông minh”, “công sở và thành phố thông minh” được kết nối internet, liên kết với nhau thành một hệ thống thay vì các dây chuyền sản xuất và phương pháp quản trị hành chính trước đây. Nhờ khả năng kết nối bằng máy tính, các thiết bị di động tiếp cận với các cơ sở dữ liệu lớn từ nhiều nguồn, những tính năng xử lý thông tin được nhân lên nhờ những đột phá về công nghệ bằng trí tuệ nhân tạo, người máy, công nghệ in 3D, công nghệ na-nô, công nghệ điện toán đám mây, công nghệ sinh học, công nghệ lượng tử, công nghệ vật liệu mới,…
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mở ra kỷ nguyên mới của sự lựa chọn các phương án đầu tư kinh doanh, tối ưu hóa sử dụng các nguồn lực, thúc đẩy năng suất lao động và hiệu quả, tạo bước đột phá về tốc độ phát triển, phạm vi mức độ tác động làm biến đổi cơ bản hệ thống sản xuất và quản trị xã hội cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Những bước nhảy vọt của công nghệ tự động hóa có tác động đến các công việc văn phòng, bán hàng, dịch vụ khách hàng điều khiển các phương tiện giao thông và các ngành hỗ trợ khi rô-bốt tự động hóa và trợ lý ảo trở nên phổ biến. Những truy vấn khách hàng trong kinh doanh sẽ được trả lời bằng rô-bốt tư vấn. Trên thị trường tài chính, máy tính có thể nhanh chóng đọc hàng vạn e-mail… Tất cả những dịch vụ trên đây sẽ tiết giảm đáng kể chi phí giao dịch. Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ đặt ra những yêu cầu mới về kiến thức kỹ năng và tâm thế của người lao động. Những kiến thức và kỹ năng có thể chia thành 3 nhóm:
- Các kiến thức và kỹ năng liên quan đến nhận thức, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kỹ năng thích nghi, kỹ năng sáng tạo.
- Các kỹ năng về thể chất: kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng số, kỹ năng kết nối.
- Các kỹ năng về xã hội: giao tiếp, ứng xử, tạo lập quan hệ, làm việc theo nhóm.
Như vậy, việc áp dụng tổng hòa những kiến thức kỹ năng và tâm thế để đổi mới sáng tạo quan trọng hơn nhiều so với những kiến thức, kỹ năng chuyên biệt trước đây.
Cách mạng công nghiệp 4.0 thật sự đặt giáo dục đại học trước những thách thức mới diễn ra nhanh. Các trường đại học có thể chưa dự đoán hết được các kỹ năng mà thị trường lao động cần. Các hoạt động đào tạo và nghiên cứu của các trường đại học chủ yếu vẫn theo phương pháp truyền thống sẽ phải đối mặt với những thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, cơ cấu kiến thức, kỹ năng và phương pháp. Với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học cả tư duy những kiến thức kỹ năng mới, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền thống không thể đáp ứng. Đây là thách thức lớn, đặc biệt trong bối cảnh nền giáo dục đại học của Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, cả những yếu tố nền móng và phát triển.
3. Thách thức đặt ra đối với giáo dục đại học
Khó dự đoán được nhu cầu thị trường
Các kỹ năng mà thị trường lao động sẽ cần trong tương lai gần do tốc độ thay đổi công nghệ từ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra quá nhanh.
Thực tế, cơ cấu các ngành đào tạo đại học hiện nay về cơ bản tự phát, chưa có định hướng rõ nét, xu hướng học để bảo đảm cuộc sống hiện tại, chưa chú ý đúng mức đến tiềm năng, kỳ vọng cá nhân, xu hướng phát triển của thời đại và yêu cầu của đất nước. Nhiều sinh viên giỏi về khoa học tự nhiên nhưng lựa chọn các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, ngoại thương,…
Do áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0, khi đó nhiều lĩnh vực công nghiệp được tự động hóa thay thế con người và các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ cao. Do đó nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất thì bị loại khỏi thị trường lao động.
Hiện nay, không chỉ ở Hải Phòng, mà Việt Nam cũng như nước đang phát triển trong khu vực và thế giới đều đang phải đối mặt với những thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đào tào ra nguồn nhân lực lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới của thế giới. Muốn hòa nhập vào cuộc CMCN 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực, các trường đại học, nơi cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn giáo dục 4.0 theo hướng bảo đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho người học.
Cạnh tranh khốc liệt
Các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học từ các trường đại học đối mặt với các yêu cầu cải cách và cạnh tranh mới. Nhiều tập đoàn công nghệ ngày nay có tiềm lực công nghệ, con người và tài chính rất lớn, họ lại ở tuyến đầu trong cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống vì thế họ có nhiều trải nghiệm quý giá mà giới hàn lâm đại học không có. Chính điều đó đã làm giảm đáng kể ranh giới và khoảng cách về tri thức và khả năng sáng tạo giữa khu vực đại học & công nghiệp. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học những kỹ năng và kiến thức cơ bản lẫn tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải. Tất cả tạo ra một bức tranh giáo dục đào tạo sinh động mà các phương thức giáo dục truyền thống chắc chắn sẽ không thể đáp ứng.
Tự động hóa sẽ thay thế con người
Những đột phá về công nghệ mới trong các lĩnh vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0 này, hệ thống giáo dục đại học sẽ bị tác động mạnh mẽ và toàn diện, danh mục ngành đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh.
Sự liên kết của các lĩnh vực lý – sinh; cơ – điện tử - sinh, hình thành những ngành đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy (ví dụ: nghề trợ lý ảo, phục vụ ảo, thư ký ảo…). Những khái niệm phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo sẽ trở thành xu hướng trong hoạt động đào tạo trong thời gian tới.
Trường Đại học Hải Phòng có sứ mệnh là cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, có sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động; là trung tâm văn hóa, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng, vùng Duyên hải Bắc Bộ và cả nước”. Đến năm 2030 Trường Đại học Hải Phòng trở thành trường đại học theo định hướng ứng dụng, tiệm cận trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Giá trị cốt lõi của nhà trường được xác định là “Chất lượng - Hiệu quả - Đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Trên cơ sở khảo sát cơ sở lý luận và thực tiễn về CMCN 4.0, tác động của nó đối với giáo dục dại học, nhóm tác giả đưa ra Yêu cầu năng lực tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0 đối với đào tạo nguồn nhân lực như trong bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Yêu cầu năng lực tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0
đối với đào tạo nguồn nhân lực
4. Một số gợi ý chính sách đối với giáo dục đại học ở Việt Nam và Trường Đại học Hải Phòng
Trước những tác động tiềm năng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để làm tốt vai trò của trường đại học, là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa càng sâu rộng như hiện nay, khi mà trong một số lĩnh vực nhất định, lao động có thể di chuyển giữa các nước theo những cam kết của AEC, giáo dục đào tạo Việt Nam cần có những chính sách quyết liệt và mạnh mẽ theo các hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo rõ ràng trong đó chỉ rõ sự chuyển dịch của các ngành nghề đào tạo cũng như nâng cao kỹ năng của nhân lực được đào tạo. Coi chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo như là một chiến lược quan trọng để thực hiện chiến lược phát triển KHCN và kinh tế.
Áp dụng bài học của Mỹ và Nhật Bản khi áp dụng chính sách STEM trong việc đưa ra các chính sách ưu tiên và đầu tư thỏa đáng đối với sinh viên học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán để định hướng lại nghề nghiệp cho sinh viên Việt Nam. Việc nhiều sinh viên giỏi thường lựa chọn các ngành kinh tế, ngoại thương, tài chính, ngân hàng... không nhiều sinh viên giỏi thi vào các trường công nghệ và kỹ thuật đã dẫn đến sự thiếu hụt nhân sự trong một số ngành công nghệ số, tự động hóa và công nghệ thông tin.
Thứ hai, cần có các chính sách rõ ràng trong việc cải thiện chỉ số giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực thông qua việc nâng cao kỹ năng làm việc cho sinh viên đặc biệt là kỹ năng làm việc và kỹ năng tiếng Anh để có thể tận dụng được cơ hội do cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại.
Muốn vậy, cần khuyến khích các trường, các bậc học tập trung (1) Tăng các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh ở các trường, các bậc học, qua đó nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh của học sinh, sinh viên; (2) Đào tạo và nâng cao năng lực tiếng Anh cho giảng viên, đào tạo đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp có trình độ tiếng Anh tốt; (3) Kết nối chặt chẽ giữa cơ quan thực tế và cơ sở đào tạo. Coi quá trình đào tạo nguồn nhân lực là trách nhiệm chung của các bên chứ không phải của riêng các trường;(4) Tăng dung lượng các học phần giảng dạy do các nhà làm thực tế đảm nhiệm trong các chương trình đào tạo để tăng tính thực tiễn của các chương trình đào tạo; (5) Tăng các bài báo công bố trong các tạp chí có uy tín trong nước và thế giới theo các danh mục chuẩn như ISI và Scopus, tăng tỉ lệ trích dẫn các bài báo, các công trình đối với các trường đào tạo khoa học cơ bản; (6) có những chính sách định hướng nghề nghiệp rõ ràng để tránh tính (tình) trạng học lệch, học chỉ học lý thuyết mà không chịu rèn luyện kỹ năng cũng như thái độ làm việc.
Thứ ba, cần (có) chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới trong đào tạo và quản lý đào tạo qua đó góp phần cải thiện chỉ số đổi mới công nghệ, tăng chỉ số Kinh tế tri thức của Việt Nam.
Cụ thể là (1) đầu tư tăng chi tiêu cho khoa học công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại cho đào tạo nhất là đào tạo nghề; (2) Đổi mới cách thức quản lý đào tạo, ứng dụng các hệ thống quản lý thông minh; (3) Các trường công nghệ và kỹ thuật, phải đặt trọng tâm vào gắn kết với các doanh nghiệp để thực hiện nghiên cứu triển khai để nâng cao khả năng hấp thụ, và nếu tốt hơn là tạo ra các bằng phát minh sáng chế, và để lôi cuốn sinh viên tham gia các hoạt động đổi mới sáng tạo ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Thứ tư, đầu tư vào các chương trình, các chính sách để cải thiện chỉ số Công nghệ thông tin và truyền thông thông qua các hình thức như (1) Tăng cường đào tạo về công nghệ thông tin ở các cấp học; (2) Xây dựng chuẩn đầu ra tin học đáp ứng yêu cầu và chuẩn mực quốc tế, qua đó làm văn (căn) cứ và mục tiêu rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ thông minh trong quá trình học tập; (3) Xây dựng các nguồn dữ liệu mở để chia sẻ tri thức; (4) Xây dựng xã hội học tập thông qua việc phát triển các chương trình đào tạo trực tuyến chất lượng cao đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của mỗi cá nhân.
Có thể nghiên cứu các chính sách yêu cầu học sinh, sinh viên phải học một số học phần trực tuyến (có thể tới 10%) để rèn luyện và tăng khả năng thích ứng linh hoạt, tăng kỹ năng sử dụng các thiết bị công nghệ thông minh cho sinh viên/học sinh.
Như vậy, cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực tương lai. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam cần đổi mới để có thể tạo ra những nguồn nhân lực có năng lực vượt trội, có năng lực chuyên môn, có khả năng làm việc với công nghệ thông minh và khả năng ngoại ngữ để có thể “đứng trên vai những người khổng lồ” và tận dụng tốt các cơ hội của cuộc cách mạng này đưa nước ta phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Thứ năm, nâng cao vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ tương tác với thị trường, tạo động lực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Về phía Nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi trường thuận lợi phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao; thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phải phản ánh đầy đủ quan hệ cung - cầu và qua đó, làm căn cứ hoạch định chiến lược và chính sách. Sử dụng cơ chế thị trường để đánh giá, tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng. Có chính sách đặc biệt đối với những nhà khoa học đầu ngành.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về công nghệ, trước mắt ưu tiên đối với các lĩnh vực nước ta có thế mạnh, như công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học. Các vườn ươm này sẽ gắn kết chặt chẽ giữa trường đại học và doanh nghiệp, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, khởi đầu của các ý tưởng, sáng tạo, đưa kết quả của các công trình nghiên cứu vào sử dụng,...
Thứ sáu, phát triển quan hệ với doanh nghiệp và các tổ chức bên ngoài để tăng trao đổi tri thức, đẩy mạnh ứng dụng.
Các trường đại học quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm theo hình thức hợp tác công - tư. Các phòng thí nghiệm này không chỉ là nơi để sinh viên thực hành mà còn là trung tâm nghiên cứu chuyên sâu theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng tri thức cao. Tùy thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể mà lựa chọn nội dung và hình thức liên kết phù hợp. Về nội dung hợp tác liên kết nghiên cứu phát triển dưới dạng hợp đồng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, phối hợp thực hiện các chương trình đào tạo. Doanh nghiệp với tư cách là khách hàng thường xuyên của các trường đại học. Hợp tác nghiên cứu sẽ mang lại cho các trường đại học nguồn kinh phí đáng kể để tăng thêm tiềm lực khoa học - công nghệ và nâng cao chất lượng đào tạo.
Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy, để sự liên kết này thành công, cần sự tác động từ 3 phía. Nhà nước có cơ chế chính sách tạo điều kiện và môi trường thuận lợi, tạo khung pháp lý cho mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp, giữa đào tạo nghiên cứu và chuyển giao công nghệ với sản xuất - kinh doanh, trong đó cần quan tâm đến chính sách đầu tư, cơ chế tài chính, tạo động lực cho việc liên kết bền vững. Khuyến khích phát triển thị trường sản phẩm khoa học - công nghệ, ngoài khoa học cơ bản, cần trao quyền tự chủ đối với các lĩnh vực khoa học ứng dụng cho nhà trường, các viện nghiên cứu, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động nghiên cứu. Đối với doanh nghiệp, cần chủ động đề xuất nhu cầu đào tạo, nghiên cứu khoa học, lựa chọn các đề tài, dự toán kinh phí, chọn cử cán bộ có năng lực tham gia. Các trường đại học cần tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ nghiên cứu, thu hút cán bộ giỏi các chuyên gia trong và ngoài nước hợp tác với nhà trường. Đổi mới cơ chế quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trong đó xây dựng đội ngũ giáo viên là khâu then chốt.
Bảy là, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tăng cường ứng dụng
- Để thay đổi kịp với cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay, Trường Đại học Hải Phòng đã và tiếp tục đổi mới mô hình, chương trình đào tạo và phương thức tuyển sinh. Tiến tới sẽ xây dựng chương trình để người học có thể chủ động lựa chọn chương trình học để phù hợp với vị trí công tác đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu khoa học hoặc theo công việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế.
Nhà trường sẽ tiếp tục hoàn thiện mô hình đào tạo với mục tiêu tăng cường chất lượng đào tạo đại học, thạc sĩ theo định hướng ứng dụng, đáp ứng yêu cầu cao về chuẩn đầu ra. Sinh viên ngay từ năm thứ 1 đã được tham gia các câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, các nhóm nghiên cứu cùng các nhà khoa học, các giảng viên thực hiện các đề tài nghiên cứu cùng giáo viên hướng dẫn. Hướng nghiên cứu đề tài tốt nghiệp đại học sẽ được phát triển tiếp tục ở bậc thạc sĩ, tiến sĩ. Nhà trường đang nghiên cứu để sinh viên có thể lập kế hoạch học tập, đăng ký học các học phần trong chương trình để quá trình học tập từ bậc đại học lên thạc sĩ không ngắt quãng. Đây là chủ trương gắn chặt đào tạo với nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Với cuộc cách mạng công nghệ, các trường đại học khác đang đứng trước thách thức rất lớn đó là cạnh tranh nguồn lực không chỉ trong nước mà cả toàn cầu như chảy máu chất xám. Cụ thể, một số giảng viên của trường Đại học Hải Phòng đi nghiên cứu tiến sĩ ở nước ngoài không trở về. Để khắc phục, trường Đại học Hải Phòng đã đưa nhiều giải pháp để thu hút giảng viên trẻ, nhà nghiên cứu, chuyên gia tới hợp tác giảng dạy tại Trường Đại học Hải Phòng ; tạo điều kiện tốt nhất cho các giảng viên trong trường tham gia hoạt động nghiên cứu, đặc biệt về cơ sở vật chất, môi trường làm việc, thực hiện tự chủ… để khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bước vào thì trường có những điều kiện, có tâm thế sẵn sàng thực hiện.
Tám là, quản trị đại học theo 4.0:Chuyển dịch từ mô hình trường đại học truyền thống sang mô hình trường đại học định hướng doanh nghiệp.
Quá trình chuyển dịch trường đại học từ mô hình truyền thống chỉ coi trọng nghiên cứu khoa học và giảng dạy, sang mô hình trường đại học định hướng doanh nghiệp tích hợp thêm nhiệm vụ tạo ra lợi ích kinh tế có thể trải qua nhiều mức độ với thời gian dài, ngắn khác nhau, phụ thuộc vào từng bối cảnh. Trong mô hình trường đại học truyền thống, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo sinh viên xuất sắc và công bố nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã được coi là làm tròn sứ mệnh. Còn trong mô hình trường đại học định hướng doanh nghiệp, nhà trường cần đẩy cao hơn sự chủ động và đóng góp của mình vào xã hội, bằng việc đưa những sản phẩm tri thức mình tạo ra gần hơn nữa với nhu cầu thực tiễn và thúc đẩy nhanh chóng khả năng ứng dụng của những sản phẩm đó. Việc triển khai các hoạt động hướng tới một sự xích lại gần hơn các giá trị kinh tế này tại các trường đại học đòi hỏi thời gian.
Chín là, phát triển quan hệ với doanh nghiệp và các tổ chức bên ngoài và quốc tế để thúc đẩy trao đôi tri thức
Trường Đại học Hải Phòng hiện đã gây dựng được nhiều mối liên hệ với giới doanh nghiệp và khu vực công. Để tiềm năng khoa học và tài sản tri thức của mình được nhanh chóng phát huy và đưa vào ứng dụng khai thác, bản thân Nhà trường cần chủ động đưa ra các ý tưởng sáng tạo đổi mới, tạo cơ hội để trao đổi kiến thức. Là một trường đại học đa cấp đa ngành, đáp ứng nguồn nhân lực cao cho thành phố Hải Phòng, Trường cần áp dụng các kỹ năng marketing trong việc tìm kiếm các cơ hội tạo ra giá trị và xúc tiến, quảng bá giá trị tới các nhóm công chúng, khách hàng tiềm năng.
Cuối cùng, một trường đại học trong điều kiện 4.0 cần nâng cao năng lực tiếp cận của mình theo hướngtiếp tục thúc đẩy quốc tế hóa các quan hệ hợp tác và hướng tới phát triển định hướng doanh nghiệp của nhà trường. Điều này sẽ mở rộng cơ hội tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm từ các trường đại học định hướng doanh nghiệp thành công, cũng như mang lại cho nhà trường những đối tác mạnh và những thị trường tiềm năng giúp nâng cao giá trị kinh tế cho các tài sản tri thức của mình.
5. Kết luận
Trải qua gần 60 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Hải Phòng đang chuẩn bị bước sang một viễn cảnh với những cơ hội và thử thách mới. Những chuyển biến mạnh mẽ từ môi trương kinh tế xã hội trong và ngoài nước tạo ra sức ép đổi mới cho giáo dục đại học nói chung, Trường Đại học Hải Phòng nói riêng, trước nguy cơ tụt hậu so với chính mình. Bài viết này đi sâu phân tích đặc trưng, thử thách CMCN 4.0, đưa ra các gợi ý về những bước đi đầu mà Trường Đại học Hải Phòng có thể thực hiện, để chuyển mình và bắt nhịp cùng xu hướng phát triển của thời đại. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và bao hàm một quá trình phức tạp. Sẽ cần có những nghiên cứu tiếp theo để đưa ra những giải pháp chi tiết cho chương trình hành động ưu tiên và lộ trình thực hiện cụ thể. Các tác giả hy vọng rằng những phân tích này mang đến những gợi ý hữu ích góp phần củng cố và khẳng định vị thế của Trường Đại học Hải Phòng trên con đường phát triển kinh tế, xã hội đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Thị Vân Hoa, Đỗ Thị Đông (2016), ‘Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với đào tạo ngồn nhân lực của Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế Phát triển, trang 62-69, số 233 (tháng 11/2016).
2. Trần Thọ Đạt, Doãn Hoàng Minh (2016), ‘Đại học theo mô hình doanh nghiệp và khả năng áp dụng tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân’, Tạp chí Kinh tế Phát triển, trang 10-19, số 233 (tháng 11/2016).
3. Nguyễn Thị Hiên, Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Văn Hưng (2017), ‘Vai trò của Trường Đại học trong phát triển khởi nghiệp đổi mới sáng tạo – Trường hợp Trường Đại học Hải phòng, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Hải Phòng, số tháng 9/2017.
4. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2017), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, số 12, quý IV/2016;
5. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2015), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016.
6. Báo cáo Vietnam CEO Isight 2017 (2017), Cuộc chuyển đổi thế kỷ 21 – Tư duy quản lý thế giới mới, NXB Hồng Đức.
7. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2016), Tổng luận “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”.
Một số bài online của các tác giả Trần Đình Thiên, Vũ Minh Khương…